Trang chủ    Thực tiễn    Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân
Thứ năm, 16 Tháng 11 2023 10:29
3292 Lượt xem

Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân

ThS VŨ THỊ THÙY
Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa 

(LLCT) - Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là một trong những tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng sâu sắc. Bài viết làm rõ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thực trạng thực hiện ở Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa và đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng của Người trong tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong thời gian tới.
 

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025 - Ảnh: https://baothanhhoa.vn.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(1) và “Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”(2). Chính vì vậy, phục vụ nhân dân, làm công bộc cho dân là một việc làm cao thượng. Theo Người, để làm tròn vinh dự và trách nhiệm của mình, mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng và toàn Đảng nói chung phải luôn giữ vững và thường xuyên tăng cường mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhân dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân thể hiện ở một số nội dung sau:

Thứ nhất, nhân dân là cội nguồn sức mạnh của Đảng

Hồ Chí Minh khẳng định: Dân là gốc của nước, của cách mạng, vì mọi “lực lượng đều ở nơi dân(3). Người luôn nhận thức một cách sâu sắc về vị trí và vai trò của nhân dân trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(4); “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(5). Do đó, Đảng “phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được rời xa dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”(6).

Thứ hai, Đảng “phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”(7)thì  nhân dân mới tin tưởng và đi theo Đảng

Là người lãnh đạo, Đảng cần có trí tuệ, trình độ, năng lực, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, phải là “một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất”(8), “mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng”(9). Là người đầy tớ của nhân dân, cán bộ, đảng viên phải có những phẩm chất trung thành, tận tụy, trung thực, cần, kiệm, liêm, chính, lo trước thiên hạ, vui sau mọi người, “việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(10).

Tuy nhiên, đảng viên “tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng(11). Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân, không hề có sự đối lập, mâu thuẫn; ngược lại, đó là sự gắn bó, thống nhất chặt chẽ, không tách rời, tư cách này làm điều kiện, tiền đề cho tư cách kia và phải làm tốt cả hai tư cách thì Đảng mới hoàn thành được trọng trách của mình.

Thứ ba, cách thức, biện pháp tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân

Phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân là chủ và dân làm chủ. Thực hiện quyền dân chủ, nhân dân quyết định vận mệnh tương lai của đất nước, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, đội ngũ cán bộ, đảng viên, từ đó làm cho mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân càng thêm khăng khít.

Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân,Hồ Chí Minh yêu cầu: “Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng:Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Điểm thứ hai là bất cứ việc gì cũng phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”(12).

Nâng cao trình độ dân trí, chăm lo cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Hồ Chí Minh phân tích: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công việc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”(13). Dân trí được nâng cao thì hiệu quả nhân dân tham gia xây dựng Đảng và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng được nâng lên. Nhưng, nâng cao dân trí là chưa đủ, phải đưa cuộc sống của nhân dân ngày càng tốt đẹp hơn. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(14). Người đã chỉ ra một cách rõ ràng trách nhiệm, nghĩa vụ của Đảng đối với nhân dân: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân(15); “nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”(16).

Nâng cao đạo đức cách mạng và tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên từ nhân dân mà ra. Nhân dân là “nền gốc” sinh ra cán bộ, là cái “nôi” nuôi dưỡng, giúp đỡ cán bộ trưởng thành, phát triển. Do đó, cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần gương mẫu trong cả tư tưởng và hành động thì nhân dân mới tin tưởng, làm theo. Hồ Chí Minh cho rằng: “Cán bộ xung trước, Làng nước theo sau, Việc khó đến đâu, Cũng làm được hết(17) và “trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(18).

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng”(19), gắn bó mật thiết với nhân dân là “tư cách và bổn phận” của người đảng viên. Vì thế, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện và thực hành tốt đạo đức cách mạng.

Chống lại các mối đe dọa, xâm hại đến mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Bên cạnh việc nâng cao cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn chia rẽ Đảng với nhân dân của kẻ địch, Hồ Chí Minh xem bài trừ chủ nghĩa cá nhân là một nhiệm vụ quan trọng, bởi chủ nghĩa cá nhân là “giặc nội xâm”, “đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân. Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”(20).

Bên cạnh đó, Người còn chú trọng chống bệnh quan liêu, bởi cán bộ, đảng viên mang căn bệnh này “khi phụ trách ở một vùng nào thì như một ông vua con ở đấy, tha hồ hách dịch, hoạnh họe… Cái đầu óc “ông tướng, bà tướng” ấy đã gây ra bao ác cảm, bao chia rẽ, làm cho cấp trên xa cấp dưới, đoàn thể xa nhân dân”(21). Những căn bệnh do chủ nghĩa cá nhân gây ra làm tổn thương niềm tin của nhân dân đối với Đảng; do đó,quét sạch chủ nghĩa cá nhân cũng góp phần làm thắm thiết hơn mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

2. Đảng bộ Tỉnh Thanh Hóa vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân - thực trạng và giải pháp tăng cường

Thanh Hóa là một trong ba đảng bộ có số lượng đảng viên lớn nhất của cả nước, với 235.284 đảng viên (tính đến tháng 6-2023), sinh hoạt tại 1.404 tổ chức cơ sở đảng. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ chốt các cơ quan, đơn vị, địa phương của tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, liên tục, đồng bộ, quyết liệt; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kiên trì đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đảng bộ đã chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đầy đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới; đặc biệt, nâng cao đạo đức lối sống, ý thức phục vụ nhân dân cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Năng lực lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng về phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên. Chú trọng mở rộng và đa dạng hóa hình thức tập hợp nhân dân. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đồng thuận xã hội được phát huy. Đề cao quyền dân chủ của nhân dân gắn với giữ vững kỷ cương; ngăn chặn, xử lý nghiêm những hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân, gây rối trật tự công cộng, ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. Thực hiện nghiêm quy chế dân chủở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân theo quy định; thường xuyên tiếp xúc, đối thoại, giải quyết các kiến nghị của người dân và doanh nghiệp.

Các hoạt động giám sát và phản biện xã hội được đẩy mạnh; hoạt động tiếp xúc, đối thoại trực tiếp của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan chính quyền với người dân và doanh nghiệp ngày càng hiệu quả, giải quyết kịp thời các phản ánh, kiến nghị, đề xuất chính đáng của người dân, tổ chức và doanh nghiệp. Mặt khác, Đảng bộ đã quan tâm lãnh đạo việc nâng cao hiệu quả công tác dân vận, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo. Cấp ủy, chính quyền, đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng gần dân hơn, hiểu dân hơn, lắng nghe dân nói hơn. Vì thế, nhân dân tin tưởng, đồng thuận hơn với hoạt động lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa cấp ủy, tổ chức đảng với nhân dân trong Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa còn những hạn chế. Việc triển khai, cụ thể hóa các nhiệm vụ công tác dân vận có nơi còn lúng túng, chưa kịp thời, chưa đôn đốc, kiểm tra thường xuyên. Công tác tuyên truyền phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước có nơi, có lúc chưa được chú trọng. Hoạt động của hệ thống ban dân vận có lúc, có nơi chưa thật sự sâu sát cơ sở, nên chưa tham mưu cho cấp ủy giải quyết kịp thời, hiệu quả một số vấn đề phát sinh, còn để xảy ra các vụ việc nổi cộm trong nhân dân, như: khiếu kiện đông người, vượt cấp, đình công.

Lãnh đạo công tác quản lý nhà nước về một số lĩnh vực nhạy cảm như đất đai, tài chính, khoáng sản, bồi thường giải phóng mặt bằng, thực hiện chế độ chính sách… vẫn còn để xảy ra sai phạm, gây bức xúc trong nhân dân.

Mặc dù chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của Thanh Hóa từng bước được nâng lên, nhưng vẫn còn một bộ phận cán bộ yếu về trình độ, năng lực; phương pháp, tác phong công tác không phù hợp với vị trí công việc; tính chủ động, tự chịu trách nhiệm, ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương, kỷ luật lao động và đạo đức công vụ chưa cao. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa thật sự nêu gương, có biểu hiện hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp, chưa thật sự lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Công tác tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân ở một số khu vực, địa bàn làm chưa tốt, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ.

Trong thời gian tới, để tăng cường mối quan hệ giữa cấp ủy, tổ chức đảng với nhân dân ởtỉnh Thanh Hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần tập trung thực hiện một sốgiải pháp sau:

Một là, thường xuyên làm tốt côngtác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân về tầm quan trọng của việc tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận”(22). Theo đó, cần nhận thức đầy đủ, thấu đáo đây làmối quan hệ mật thiết; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, giải quyết tốt những nguyện vọng chính đáng của dân, dựa vào dân và dân tin tưởng Đảng thì năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng được nâng lên, là cơ sở để phát triển toàn diện địa phương, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại, tổ chức đảng xa dân, không giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân sẽ không làm tròn trách nhiệm với nhân dân. Muốn nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên cần phát huy vai trò của hệ thống phát thanh, truyền hình, báo chí trong tỉnh, các cổng thông tin điện tử của các cơ quan, đơn vị trong tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các văn bản của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Mặt trận Tổ quốc và các ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội trong tỉnh; đa dạng, linh hoạt các nội dung, hình thức tuyên truyền.

Hai là, xây dựng các tổ chức đảng thật sự trong sạch, vững mạnh; đổi mới phương thức lãnh đạo và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng

Đổi mới việc ra nghị quyết của đảng bộ, chi bộ, cấp ủy theo hướng dân chủ, khoa học, bảo đảm quán triệt được nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, sát thực tế địa phương, đơn vị, đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, có tính khả thi trong tổ chức thực hiện. Xây dựng và thực hiện quy chế quan hệ công tác giữa bí thư cấp ủy với người đứng đầu cơ quan chính quyền, ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để thuận lợi cho việc bàn và giải quyết kịp thời những công việc quan trọng và bức xúc ở địa phương, đơn vị, bảo đảm cấp ủy quán xuyến được các mặt công tác ở cơ sở.

Thực hiện nghiêm túc, có nền nếp chế độ sinh hoạt đảng định kỳ, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ. Tiến hành thường xuyên, nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt cấp ủy, chi bộ. Chăm lo kiện toàn, xây dựng các cấp ủy đảng đủ về số lượng, có cơ cấu phù hợp, chất lượng cao, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện đối với toàn đảng bộ. Thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng gắn với nâng cao chất lượng các nghị quyết, chủ trương, biện pháp lãnh đạo.

Đấu tranh với tệ quan liêu, xa dân, tham nhũng, tiêu cực. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị và các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chính quyền của tỉnh phải nêu gương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và kiên quyết đấu tranh chống chống chủ nghĩa cá nhân; trong thực hiện trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành luôn có biện pháp cụ thể, gắn yêu cầu, kết quả công việc với yêu cầu về chống tham nhũng, tiêu cực; làm việc có chương trình, kế hoạch, mục tiêu, có thời hạn và định mức, kết quả cụ thể, bảo đảm nói đi đôi với làm; có biện pháp kiểm tra, đánh giá kịp thời, ngăn chặn dấu hiệu vi phạm từ khi mới manh nha; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Duy trì chặt chẽ kỷ luật đảng ngay từ cơ sở. Đổi mới hình thức quản lý đảng viên. Xử lý nghiêm minh, kịp thời, dứt điểm những hành vi vi phạm của cá nhân và tập thể gắn với quy trách nhiệm người đứng đầu. Bên cạnh đó, làm thất bại các thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thể lực thù địch, nhất là âm mưu, thủ đoạn chia rẽ cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên với nhân dân trong tỉnh.

Ba là, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên

Đại hội XIII của Đảngtiếp tụckhẳng định: “phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu, cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang”(23). Do đó, hệ thống chính trị các cấp của tỉnh cần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng; có đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; phương pháp làm việc khoa học; có tinh thần “dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới, sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung”.

Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, góp phần chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, bảo đảm công tác này đi vào thực chất, hiệu quả. Làm tốt công tác luân chuyển, điều động, bổ nhiệm cán bộ; phát huy năng lực, trách nhiệm của cán bộ có đức, có tài, có tâm và có tầm, cống hiến cho sự nghiệp chung của tỉnh; ưu tiên bố trí, sử dụng cán bộ có tư duy đổi mới, làm việc hiệu quả. Thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với cán bộ, đảng viên quan tâm đời sống của cán bộ, đảng viên để họ an tâm công tác, cống hiến nhiều hơn nữa cho nhân dân, cho sự phát triển của tỉnh.

Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, đảng viên thấy được vinh dự cũng như thách nhiệm của bản thân trong mối quan hệ với nhân dân; phải luôn đặt mình vào vị trí là “công bộc”, “đầy tớ” của nhân dân để tích cực tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng; luôn “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”.

Bốn là, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận

Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025 và các văn bản chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ về công tác dân vận nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của hệ thống chính trị các cấp trong tỉnh về công tác dân vận trong tình hình mới.

Tập trung làm tốt công tác dân vận trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo. Phát huy vai trò của ban dân vận các cấp trong tham mưu thực hiện công tác dân vận, công tác dân tộc, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “dân vận khéo” gắn với các phong trào thi đua yêu nước và các cuộc vận động, phong trào do Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội phát động.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả mô hình “chính quyền thân thiện, vì nhân dân phục vụ” trên địa bàn toàn tỉnh. Cấp ủy, cơ quan chính quyền các xã, phường, thị trấn thực hiện tốt việc công khai để nhân dân được biết, được bàn và quyết định theo quy định về thực hiện dân chủ ở địa phương, nhất là tham gia ý kiến vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng nông thôn mới; bảo đảm văn hóa, giáo dục, y tế; củng cố quốc phòng, an ninh. Đồng thời, công khai, minh bạch các khoản thu, mức thu các loại thuế, phí, lệ phí và các cuộc vận động ủng hộ từ phía doanh nghiệp, người dân; kế hoạch thu, chi ngân sách của địa phương; cơ chế, chính sách của Trung ương và quy định của tỉnh về phát triển kinh tế, an sinh xã hội, thu hồi đất thực hiện các dự án đầu tư; công khai các chính sách vay vốn, chính sách đối với người có công, chế độ hỗ trợ các đối tượng chính sách, để nhân dân giám sát.

Nắm chắc tình hình, dự báo sát đúng, giải quyết sớm, kịp thời, dứt điểm các khó khăn, vướng mắc, những bức xúc của người dân ngay tại xã, phường, thị trấn. Động viên nhân dân tham gia góp ý xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh. Phát huy dân chủ của nhân dân, nhưng phải gắn với pháp luật, duy trì kỷ cương, tránh lợi dụng dân chủ gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là người nghèo, người dân tộc thiểu số, bảo đảm mọi người dân đều sống trong môi trường an toàn, an ninh và được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới, không ai bị bỏ lại phía sau. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp có các giải pháp đột phá xóa đói, giảm nghèo, tăng sinh kế cho người dân, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu trong việc cưới, việc tang, lễ hội, đặc biệt là ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các thiết chế văn hóa hiện có; tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, lòng yêu nước, tự hào dân tộc và ý thức trách nhiệm xã hội cho nhân dân, góp phần xây dựng văn hóa trong gia đình, trường học, cơ quan, công sở và xã hội.

_________________

Ngày nhận bài: 5-10-2023; Ngày bình duyệt: 8-10-2023; Ngày duyệt đăng: 15-11-2023.

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.434.

(2), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Sđd, tr.453, 453.

(3), (6), (12), (18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd,  tr.232, 232, 233, 16.

(5), (6), (9), (11), (21) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Sđd, tr.335, 278, 289, 338, 88.

(7), (15), (17) Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr. 612, 612, 271.

(8) Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Sđd, tr.168.

(10), (13), (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.65, 40, 64.

(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Sđd, tr.518.

(19), (20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.609, 611.

(22),(23) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.191, 192.

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền