Trang chủ    Thực tiễn    Khơi thông các nguồn lực cho phát triển kinh tế theo định hướng Đại hội XIII của Đảng
Thứ ba, 24 Tháng 10 2023 17:29
1027 Lượt xem

Khơi thông các nguồn lực cho phát triển kinh tế theo định hướng Đại hội XIII của Đảng

TS NGUYỄN TRÍ TÙNG
Viện Kinh tế
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(LLCT) - Đại hội XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu cụ thể trong phát triển kinh tế những thập kỷ tới, thể hiện khát vọng xây dựng đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế và đổi mới sâu sắc. Bài viết nhận diện những thách thức đối với quá trình phát triển kinh tế; chỉ ra các điểm nghẽn trong huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực; phát hiện những động lực mới; qua đó đề ra phương hướng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước tiệm cận với sự phát triển kinh tế tiềm năng, sớm đạt mục tiêu xây dựng xã hội Việt Nam thịnh vượng mà Đại hội đã đề ra.
 

Việt Nam đã huy động được nhiều nguồn lực cho phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế - Ảnh: baochinhphu.vn

1. Bối cảnh thế giới, trong nước và thách thức đối với phát triển kinh tế

Những diễn biến phức tạp trên thế giới từ năm 2022 vẫn tiếp tục gây chuỗi tác động không mong muốn đến các quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, nền kinh tế toàn cầu nhìn chung vẫn trong nguy cơ khủng hoảng, suy thoái theo chiều hướng không đồng đều. Cú sốc bắt nguồn từ đại dịch Covid - 19 tiếp tục gây dư chấn nghiêm trọng đến hầu hết các nền kinh tế trên thế giới trong bối cảnh hệ thống sản xuất khu vực và thế giới ngày càng thể hiện khả năng chống chịu yếu kém, chuỗi cung ứng toàn cầu tuy dần được khôi phục nhưng còn tương đối lỏng lẻo, do đó một cú sốc tương tự có thể làm tê liệt hệ thống sản xuất mà nhân loại đã mất hàng thế kỷ để thiết lập cho đến ngày nay(1).

Sự bất ổn của thế giới hiện nay không chỉ diễn ra với viễn cảnh đáng lo ngại về thiên tai, dịch bệnh mà còn bởi những mâu thuẫn nảy sinh từ địa chính trị, đặc biệt giữa các nước lớn, các cường quốc kinh tế và quân sự. Những mâu thuẫn đó tiếp nối những hậu quả do đại dịch Covid -19 tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực, đẩy nền kinh tế thế giới tiếp tục suy thoái dai dẳng hơn và có nguy cơ lún sâu vào vòng xoáy khủng hoảng. Bất ổn chính trị dẫn đến tình trạng hạn chế nguồn cung các nguồn lực cơ bản (như năng lượng, lao động) cho tăng trưởng kinh tế, làm thiếu hụt các nguyên liệu cho nguồn sống của con người (như lương thực), gây hệ quả tiêu cực đến sản xuất và tiêu dùng. Hầu hết chính phủ các nước đều thực hiện các chính sách nhằm khôi phục nền kinh tế, từ các biện pháp kích cầu, hỗ trợ người lao động cho đến các biện pháp tình thế thúc đẩy sự phục hồi của khu vực doanh nghiệp. Tuy nhiên, quá trình thực hiện thiếu sự đồng thuận lại càng làm cho các nền kinh tế đi đến phân cực mạnh hơn trong bối cảnh khủng hoảng hiện nay.

Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, gây ra nhiều thách thức lớn đến nền kinh tế thế giới. Hiện tượng Elnino gây ra những bất ổn lớn về thời tiết, khí hậu trên toàn cầu, đe dọa hầu hết các ngành kinh tế, đặc biệt là ngành nông nghiệp và hệ thống kết cấu hạ tầng của các quốc gia, vùng lãnh thổ. Hiện tượng nắng nóng cao và hạn hán, thiếu nguồn nước ở nhiều châu lục, tiếp đó là tình hình mưa bão gây lũ lụt nghiêm trọng ở nhiều nước, làm cho các chính phủ lo lắng về sự bất ổn của thiên nhiên có thể tàn phá nguồn cung lương thực, cơ sở năng lượng và kết cấu hạ tầng trên diện rộng(2).

Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam cũng có những diễn biến phức tạp hơn so với các năm trước. Nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng vào kinh tế khu vực và thế giới, được nhận định là một trong những nền kinh tế có độ mở lớn trên thế giới, do đó các cú sốc ngoại sinh có tác động rất nhanh đến nền kinh tế trong nước. Cụ thể, các biện pháp khẩn cấp với việc gia tăng lãi suất của FED, châu Âu… nhằm kiềm chế lạm phát gần đây đã gây sức ép lên mặt bằng lãi suất của nền kinh tế nội địa, đến tỷ giá hối đoái của việt nam đồng, từ đó gây ra những tác động bất lợi đến chi phí vốn vay của doanh nghiệp trong nước và năng lực xuất khẩu của nền kinh tế.

Thị trường bất động sản sau nhiều năm phục hồi và tăng trưởng trở lại, hiện nay lại rơi vào suy thoái, gây ra hiệu ứng domino tiêu cực tới nhiều lĩnh vực liên quan như: xây dựng, vật liệu…, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho nền kinh tế.

Thị trường tiêu dùng trong nước cũng chịu tác động mạnh từ bối cảnh quốc tế, nhiều đơn hàng của ngành may mặc bị cắt giảm. Bên cạnh đó, sự suy giảm nhu cầu tiêu dùng quốc tế dẫn đến tình trạng cắt giảm nhân công tại khu vực phía Nam. Doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, năng lực và sức cạnh tranh yếu kém không đủ sức chống chịu, buộc phải rút lui khỏi thị trường … Đây là các nguyên nhân dẫn đến việc làm, thu nhập của người lao động không ổn định, ảnh hưởng đến sức tiêu thụ hàng hóa dịch vụ trong đầu năm 2023.

Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục gia tăng về quy mô vốn đầu tư và số dự án cam kết nhưng lại có sự thay đổi so với những năm trước về vị trí đầu tư, lĩnh vực đầu tư, tốc độ gia tăng vốn đầu tư có xu hướng suy giảm mạnh trong hai quý đầu năm 2023… cho thấy có những thay đổi khó đoán định về quyết định của các nhà đầu tư quốc tế.

2.  Những điểm nghẽn đối với các nguồn lực cơ bản cho phát triển kinh tế Việt Nam

Trong bối cảnh đa dạng về thể chế kinh tế và chính trị trên toàn cầu, nhiều nền kinh tế với điểm xuất phát thấp đã vươn mình trở thành những nền kinh tế hùng cường, mang lại cuộc sống thịnh vượng, môi trường xanh, sạch, đời sống ngày càng văn minh và hiện đại cho người dân. Điển hình là Hàn Quốc, Xinhgapo, Đài Loan… từ mức thu nhập thấp đã bứt tốc liên tục thông qua tăng trưởng nhanh và chất lượng để trở thành những nền kinh tế có thu nhập cao, trình độ khoa học công nghệ hiện đại và đi đầu về đổi mới, sáng tạo.

Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam hiện đang thuộc nhóm quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp. Kết quả này còn khá khiêm tốn so với  mục tiêu trở thành nước có thu nhập trung bình cao và cao vào năm 2030 và 2045 theo tinh thần của Đại hội XIII của Đảng(3).

Nền kinh tế nước ta hiện nay có hai vấn đề lớn cần giải quyết: Một là, dư địa và tiềm năng tăng trưởng kinh tế trong thời gian còn lại; hai là, những thách thức đối với mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phát triển trong dài hạn. Để tìm lời giải cho các bài toán này, cần phân tích tính hiệu quả, phù hợp và kịp thời của việc huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực cho phát triển kinh tế trong những năm qua; nhận diện những điểm nghẽn đối với các nguồn lực cho phát triển kinh tế; hoạch định phương hướng, giải pháp để đạt các mục tiêu chiến lược của quốc gia.

Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm qua chủ yếu dựa vào gia tăng vốn đầu tư, tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn luôn thấp hơn so với các nước trong khu vực với cùng thời kỳ phát triển; tăng trưởng kinh tế có nhiều đột phá trong thời kỳ đầu hội nhập kinh tế quốc tế nhưng có dấu hiệu suy giảm rõ rệt sau hơn hai thập kỷ hội nhập; cùng với đó, hệ số ICOR có xu hướng tăng lên - tức là hiệu quả sử dụng vốn không được cải thiện.

Trong nửa đầu năm 2023, vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế đều tăng về quy mô, trong đó vốn đầu tư công tăng mạnh nhất, còn khu vực FDI và khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng trưởng thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước. Phân bổ vốn đầu tư trong nhiều năm vẫn thể hiện sự chi phối của khu vực kinh tế nhà nước với tỷ lệ khá cao.

Điểm nghẽn đối với nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế trong quý I và quý II năm 2023 là: (i) đầu tư công cao nhưng hiệu quả còn thấp, cụ thể, quy mô và nhu cầu vốn tiếp tục tăng, tập trung vào phát triển kết cấu hạ tầng trọng yếu và các chương trình mục tiêu quốc gia, song, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công 7 tháng kế hoạch năm 2023 ước tính chỉ đạt 35,49% kế hoạch(4); (ii) nguồn vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước chịu tác động không tích cực từ thị trường tài chính - tín dụng, làm cho nhu cầu vốn khó được đáp ứng khi lãi suất thị trường vẫn khá cao so với các năm trước, đồng thời trong bối cảnh suy thoái kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc đầu tư sinh lời hay duy trì hiệu quả hoạt động. “Với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có chất lượng tín dụng tốt, lãi suất cho vay đúng là đã trở về mức thấp dưới 10%. Với các doanh nghiệp khó khăn, "đói vốn", chất lượng tín dụng thấp, lãi suất khi đi vay ngân hàng vẫn đạt mốc 12 - 17%”(5); (iii) khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng chịu tác động tiêu cực từ thị trường thế giới, phải xoay sở tìm cách chuyển dịch đầu tư nhằm bảo toàn vốn trong bối cảnh không thuận lợi. Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tập trung chủ yếu ở các ngành chế biến, chế tạo và kinh doanh bất động sản, là những lĩnh vực gặp khó khăn nhất hiện nay. Với quy mô lớn và thời gian đầu tư lâu dài, trong tình thế “mắc kẹt” tại thị trường và chuỗi cung ứng, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc chuyển hướng đầu tư sang các lĩnh vực khác có dư địa tăng trưởng. Hiện nay, khu vực kinh tế FDI tiếp tục gia tăng về quy mô vốn đầu tư và số dự án cam kết nhưng trong trung và dài hạn có thể phải đối diện với những thách thức từ quy định thuế tối thiểu toàn cầu nếu không có những chiến lược để thu hút đầu tư phù hợp.

Nguyên nhân cơ bản bao gồm: (i) thể chế kinh tế liên quan đến đầu tư công chưa phù hợp, gây nhiều hệ lụy cho việc triển khai trên thực tiễn; (ii) sự chồng chéo trong triển khai các dự án đầu tư công, kể cả các dự án theo hình thức đối tác công - tư gắn với các quy định, nguyên tắc phức tạp gây khó khăn cho hoạt động triển khai của các chủ đầu tư; (iii) sự méo mó của thị trường tài chính - tín dụng, thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu dẫn đến khó có thể “hút” và “bơm” vốn tín dụng cho các nhà đầu tư theo hướng tăng trưởng bền vững, lãi suất cho vay trên thị trường phân tán mạnh và tình trạng tăng trưởng tín dụng có xu hướng chậm lại, nền lãi suất cho vay đối với khu vực doanh nghiệp khá cao …

Thứ hai, nguồn lực lao động của nền kinh tế còn nhiều bất cập, khả năng cạnh tranh với các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực châu Á đang có dấu hiệu “đuối sức”, năng suất lao động của nền kinh tế luôn nằm ở vị trí khá thấp. Điều đáng lo ngại là, sau nhiều năm đổi mới và hội nhập, năng suất lao động của nền kinh tế không thực sự có đột phá, gắn với đó là nguy cơ già hóa lực lượng lao động sẽ tác động tiêu cực đến chủ trương chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế thời gian tới. Hơn nữa, cơ cấu lao động theo ngành, lĩnh vực chuyển dịch không tương thích với yêu cầu phát triển kinh tế, tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp vẫn duy trì ở mức khá cao những năm qua. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến CNH, HĐH khó đạt yêu cầu đề ra.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam chưa theo kịp yêu cầu của phát triển và cạnh tranh. Đến cuối năm 2022, đầu năm 2023, lực lượng lao động của ngành nông nghiệp chiếm tới 27,54 % tổng lực lượng lao động cả nước, trong khi đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội chỉ xấp xỉ 12%; tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo còn ở mức khiêm tốn là 28,64%; khu vực lao động phi chính thức chiếm tỷ lệ lớn, khoảng 65,90%(6).

Bản đồ năng suất lao động các tỉnh, thành phố trên cả nước cho thấy sự phân tán mạnh giữa các địa phương, khoảng cách chênh lệch về năng suất lao động giữa các cực địa phương phát triển nhất với các địa phương kém phát triển nhất ngày càng giãn ra, dẫn đến chênh lệch rõ rệt về mức sống, thu nhập của người lao động. Tính đến đầu năm 2023, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có năng suất lao động bình quân cao nhất cả nước, đạt mức 634,39 triệu đồng/lao động, gấp khoảng 8,3 lần địa phương có năng suất lao động thấp nhất là tỉnh Điện Biên với mức 76,38 triệu đồng/lao động(7).

Bên cạnh đó, thị trường lao động tại Việt Nam còn khá nhiều bất cập. Cung và cầu lao động còn khá chênh lệch ở nhiều ngành nghề, cơ cấu đào tạo lao động không hợp lý, vẫn gặp phải tình trạng: “thừa thầy thiếu thợ”, đào tạo ra không xin được việc làm, đào tạo cử nhân/kỹ sư nhưng lại làm nghề phổ thông. Nhiều doanh nghiệp, nhà tuyển dụng không tìm được người lao động phù hợp, người lao động không đáp ứng yêu cầu cơ bản, dẫn đến doanh nghiệp phải thuê đào tạo hay tự đào tạo lại. Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý II năm 2023 khoảng 1,07 triệu người, tăng 25,4 nghìn người so với quý I và tăng 1,9 nghìn người so với cùng kỳ năm 2022. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý II năm 2023 là 2,30%, tăng 0,05% so với quý trước(8).

Nhìn chung, điểm nghẽn lớn nhất đối với nguồn lực lao động trong nhiều năm qua là chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa được cải thiện rõ rệt, chưa thực sự có đột phá về năng suất lao động trong gần bốn thập kỷ đổi mới và hội nhập. Do đó, vị trí của nguồn nhân lực nước ta vẫn được định vị ở khâu rất thấp trong chuỗi sản xuất toàn cầu và khu vực, chưa làm chủ được các khâu có giá trị gia tăng trung bình và cao ở hầu hết các ngành hàng của nền kinh tế quốc dân.

Thứ ba, nguồn lực khoa học - công nghệ và đổi mới, sáng tạo cho phát triển kinh tế có nhiều bất cập trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt. Những ngành có trình độ khoa học - công nghệ trung bình và cao tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, những tập đoàn xuyên quốc gia đang hoạt động trong nền kinh tế, ở một số ngành như công nghiệp chế biến, chế tạo và một số ngành dịch vụ công nghệ cao như ngân hàng, tài chính tín dụng và bảo hiểm.

Trình độ khoa học - công nghệ của các doanh nghiệp trong nước - hầu hết là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ - đều rất thấp, ở mức lạc hậu hơn thế giới từ hai đến ba thế hệ, năng lực đổi mới, sáng tạo chưa thực sự được các doanh nghiệp chú trọng và xây dựng. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều chương trình phát triển công nghệ cao từ những năm 2010 đến nay, nhưng tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam có tham gia các hợp phần về nghiên cứu và phát triển, đổi mới và sáng tạo còn khá khiêm tốn, không bảo đảm được quy mô cho thúc đẩy cạnh tranh với doanh nghiệp ngoại.

Bên cạnh đó, khả năng thương mại hóa các sản phẩm khoa học – công nghệ của các đơn vị nghiên cứu khoa học của Nhà nước và các thành phần kinh tế khác cũng rất thấp, cho thấy chất lượng của nghiên cứu khoa học chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, gây ra tình trạng lãng phí tài nguyên và nhân lực.

Nguồn lực đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ chưa tương xứng với tiềm năng tăng trưởng kinh tế. Năm 2017, bố trí ngân sách cho khoa học - công nghệ là 1.390 tỷ đồng  (trong đó tỷ lệ chi ngân sách trung ương là 8.731 tỷ đồng và ngân sách địa phương là 2.512 tỷ đồng), chiếm 1,18% tổng chi ngân sách. Năm 2022, tỷ lệ chi ngân sách là 1,01%, đến năm 2023, tổng chi ngân sách cho khoa học -  công nghệ là 2.076 tỷ đồng chiếm 0,82%, trong đó chi đầu tư là 0,23% và chi thường xuyên 0,58%(9).

Thứ tư, nguồn lực tài nguyên thiên nhiên có nhiều đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới, bảo đảm nhu cầu năng lượng, đáp ứng quá trình CNH, HĐH đất nước, ổn định an ninh năng lượng quốc gia, góp phần quan trọng đối với xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông cũng như các ngành công nghệ cao.

Tuy nhiên, nguồn lực tài nguyên thiên nhiên chưa được khai thác hiệu quả, tốc độ khai thác tài nguyên không tái tạo lớn, chất lượng khai thác không cao, tình trạng chảy máu tài nguyên diễn ra trong nhiều năm, xuất khẩu tài nguyên vẫn chủ yếu ở dạng chế biến thô, tài nguyên đất và rừng ngày càng suy giảm… dẫn đến những hệ lụy lớn cho nền kinh tế trong dài hạn. Đó là nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường trầm trọng, hệ sinh thái đang bị ảnh hưởng tiêu cực, đe dọa đến mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Do vậy, cần đánh giá cụ thể về những lợi ích từ khai thác tài nguyên thiên nhiên và những chi phí cần bỏ ra để khắc phục sự hủy hoại tài nguyên đối với thế hệ hiện tại và các thế hệ về sau.

Thứ năm, ngoài các nguồn lực nêu trên, văn hóa truyền thống và yếu tố con người Việt Nam trong hoạt động sản xuất - kinh doanh cũng là động lực quan trọng cho phát triển kinh tế. Đây là nguồn lực mềm, vô hình và có khả năng tái tạo, liên tục đổi mới, vì vậy có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy vậy, việc khai thác những giá trị văn hóa truyền thống cho phát triển kinh tế còn chưa hiệu quả, mà còn tự phát ở các địa phương, mang tính manh mún, do đó chưa thực sự là nền tảng tinh thần, là một nguồn lực làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế nội địa. Nhìn lại những bài học của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… cho thấy nền kinh tế cần có bước đi khoa học hơn trong việc xây dựng văn hóa sản xuất - kinh doanh của doanh nhân trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày nay.

3.  Phương hướng khơi thông các nguồn lực, tạo động lực cho phát triển kinh tế Việt Nam

Việt Nam đã huy động khá nhiều nguồn lực cho phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, việc phân bổ, sử dụng và kết hợp các nguồn lực trong nhiều thập kỷ vừa qua chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, là một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến tình trạng mất tốc của nền kinh tế quốc gia trong hành trình tiến đến sự thịnh vượng. Để khơi thông các nguồn lực cũng như thúc đẩy, kiến tạo các động lực mới cho tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước, hướng tới bảo đảm các mục tiêu quan trọng của Đại hội XIII (năm 2021) đã đề ra, một số phương hướng cần thực hiện bao gồm:

Thứ nhất, tận dụng quá trình toàn cầu hóa để hoán chuyển các nguồn lực bên ngoài thành động lực phát triển kinh tế đất nước. Về phía thị trường hàng hóa - dịch vụ tiêu dùng, cần hướng tới quy hoạch thị trường tiêu thụ quốc tế của các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ do doanh nghiệp trong nước tạo ra, nâng dần vị thế chuỗi giá trị sản phẩm, hàng hóa cạnh tranh. Đối với thị trường các yếu tố đầu vào, toàn cầu hóa tạo ra nhiều cơ hội phát triển các ngành công nghiệp chế tạo có giá trị gia tăng cao thúc đẩy năng lực nội sinh của doanh nghiệp trong nước. Thí dụ, doanh nghiệp có thể được hưởng lợi từ vai trò cung ứng cho các tập đoàn xuyên quốc gia, nâng cao trình độ nhân lực và lan tỏa công nghệ từ các doanh nghiệp hàng đầu thế giới tới các doanh nghiệp nội địa.

Thứ hai, nâng cao năng lực của thể chế kinh tế nhằm tận dụng hiệu quả cơ hội mà toàn cầu hóa mang lại. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới cho thấy, thể chế kinh tế luôn là một nguồn lực quan trọng, một thứ “vũ khí chiến lược” của các nền kinh tế trong cuộc cạnh tranh toàn cầu. Thể chế kinh tế là động lực tạo ra nhiều cơ hội, giảm thiểu sự ràng buộc, hỗ trợ và định hướng cho khu vực doanh nghiệp của nền kinh tế phát triển. Vai trò của nó thể hiện rõ ở chỗ huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả hệ thống các nguồn lực đầu vào, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ nền tảng đổi mới, sáng tạo của quốc gia, cấu trúc lại nền kinh tế và tạo không gian phát triển, tạo liên kết kinh tế giữa các khu vực và thành phần kinh tế trong nước.

Thứ ba, trong bối cảnh công nghệ số ngày càng được ứng dụng phổ biến trong đời sống và đem lại những giá trị mới cho sản xuất và tiêu dùng, cần nhanh chóng thực hiện hoán chuyển tài nguyên số thành động lực phát triển mới. Tính động lực của tài nguyên số thể hiện ở chỗ nó thúc đẩy năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, rút ngắn thời gian giao dịch, tạo điều kiện hình thành phương thức quản trị hiện đại, nâng cao hiệu quả kiểm soát và hình thành các tiện ích mới đối với hệ sinh thái sản xuất - tiêu dùng.

Thứ tư, biến nguồn lực có thể tái tạo thành động lực mới cho phát triển kinh tế, thay thế cho các nguồn lực không tái tạo. Tận dụng các cơ hội phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ liên quan đến kinh tế tuần hoàn, tiết kiệm và chuyển đổi năng lượng, từ đó các doanh nghiệp liên quan đến kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn… được hưởng lợi, các địa phương có lợi thế tự nhiên về năng lượng tái tạo hưởng lợi, hay những địa phương không có lợi thế về công nghiệp có thể bán tín chỉ carbon cho các tỉnh khác có nhu cầu.

Trong ngắn hạn và trung hạn, cần một số giải pháp để sử dụng các nguồn lực hiệu quả, tiết kiệm nhằm thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia: Một là, cấu trúc có hiệu quả thị trường các nguồn lực cho tăng trưởng gắn với hội nhập kinh tế quốc tế và thích ứng với biến đổi khí hậu toàn cầu; Hai là, tái cấu trúc nền kinh tế hướng tới mục tiêu kép - tiếp cận các ngành công nghệ hàng đầu trên thế giới và làm chủ các ngành mà nền kinh tế có thế mạnh, lợi thế cạnh tranh; Ba là, xây dựng phương thức quản trị nhà nước về các nguồn lực gắn với mục tiêu phát triển dài hạn, gắn đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng xanh hóa các ngành và khu vực trong nền kinh tế, ứng dụng nhanh kinh tế tuần hoàn; Bốn là, phát huy các động lực tăng trưởng đã có và phát hiện, bổ sung các động lực tăng trưởng mới một cách linh hoạt, tranh thủ tiềm năng bên trong và bên ngoài; Năm là, cải thiện môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh gắn với định vị nền kinh tế trong chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu và khu vực; Sáu là, đồng bộ và hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, tạo thế cạnh tranh với các quốc gia có thu nhập cao và trung bình cao; Bảy là, duy trì sự ổn định chính trị, bảo đảm quyền tài sản của các đơn vị sản xuất kinh doanh.

_________________

Ngày nhận: 25-9-2023; Ngày bình duyệt: 24-10-2023; Ngày duyệt đăng: 24-10-2023

(1)  Kinh tế thế giới năm 2023 và một số đề xuất tham chiếu đối với Việt Nam, https://www.tapchicongsan.org.vn.

(2)  Liên hợp quốc cảnh báo sự trở lại của El Nino và các kỷ lục mới về nhiệt độ, https://kinhtemoitruong.vn.

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.36.

(4) Giải ngân vốn đầu tư công 7 tháng năm 2023 ước đạt 35,49% kế hoạch, https://baochinhphu.vn.

(5) Lãi suất cho vay phân hóa mạnh tăng trưởng tín dụng chững lại, https://vneconomy.vn.

(6), (8) Báo cáo tình hình kinh tế xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2023, https://www.gso.gov.vn.

(7) Tổng cục thống kê: Số liệu kinh tế - xã hội 2022, trích nguồn số liệu 8-2023

(9) Chi ngân sách cho khoa học - công nghệ thấp, đáng "báo động, https://diendandoanhnghiep.vn.

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền