Trang chủ    Thực tiễn    Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng lực lượng dự bị động viên trong thời kỳ đổi mới đất nước
Thứ hai, 22 Tháng 4 2024 11:29
365 Lượt xem

Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng lực lượng dự bị động viên trong thời kỳ đổi mới đất nước

ThS NGUYỄN TRƯỜNG HẢI
TS NGUYỄN QUANG TẠO
 
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

 (LLCT) - Nghiên cứu quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng lực lượng dự bị động viên trong thời kỳ đổi mới không chỉ có ý nghĩa lý luận để bảo vệ, làm sáng tỏ và sâu sắc hơn học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới, mà còn có ý nghĩa đối với tăng cường hiệu lực hiệu quả lãnh đạo của các cấp ủy đảng, quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực xây dựng lực lượng dự bị động viên, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
 

Lực lượng dự bị động viên huyện Vạn Ninh, Khánh Hòa tham gia huấn luyện_Ảnh: baokhanhhoa.vn

1. Mở đầu

Sau gần 40 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh quốc gia, uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, tài nguyên, hoạt động khủng bố, chạy đua vũ trang vẫn đang là thách thức nghiêm trọng, đe dọa hòa bình, an ninh, ổn định và hợp tác, phát triển của các quốc gia, Việt Nam tiếp tục phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức.

 Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN “từ sớm”, “từ xa”, “giữ nước từ khi nước chưa nguy; chủ động phòng ngừa, ngăn ngừa nguy cơ xung đột, chiến tranh, làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch”(1) thì cùng với xây dựng Quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh cần quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên (DBĐV). “Lực lượng dự bị động viên bao gồm quân nhân dự bị và phương tiện kỹ thuật dự bị được đăng ký, quản lý và sắp xếp vào đơn vị dự bị động viên để sẵn sàng bổ sung cho lực lượng thường trực của Quân đội nhân dân”(2).

 2. Xây dựng lực lượng dự bị động viên trong lịch sử quân sự Việt Nam và thế giới

Xây dựng lực lượng DBĐV là kế sách giữ nước trong lịch sử dân tộc Việt Nam

Từ thời Hùng vương, các thủ lĩnh công xã đã có chính sách khi có hòa bình thì thành viên của công xã lao động sản xuất, khi chiến tranh thì sẵn sàng bổ sung vào quân đội thường trực, hoặc trực tiếp chiến đấu tại công xã theo lệnh của thủ lĩnh quân sự. Chính sách này đã đặt nền móng cho kế sách “Ngụ binh ư nông” của các triều đại phong kiến Việt Nam sau này.

Nhà Lý thực hiện chính sách vũ trang toàn dân, các hoàng nam ở tuổi 18 đều phải đăng lính hoặc tham gia lực lượng vũ trang dân chúng rộng rãi. Thời nhà Trần, chính sách “Ngụ binh ư nông” được thực hiện triệt để, bảo đảm mỗi người dân là một người lính khi đất nước có họa ngoại xâm. Trong thời chiến, các vương hầu nhà Trần được phép tổ chức gia thuộc, gia tộc, gia đồng, nô tì thành lực lượng vũ trang. Khi cần thiết, triều đình cho phép các vương hầu chiêu mộ quân ở địa phương thuộc quyền cai quản…

Thời hậu Lê, triều đình xây dựng và củng cố một lực lượng quân đội mạnh. Khi cuộc kháng chiến chống quân Minh ở vào thời điểm phát triển cao nhất, quân đội của vua Lê Lợi có tới 35 vạn người. Sau khi đánh thắng quân Minh, đất nước hòa bình, năm 1429 Lê Lợi cho 25 vạn quân trở về quê quán làm ruộng, chỉ giữ lại 10 vạn quân thường trực. Quân lính thường trực được chia ruộng công của làng, của hương (xã) và thay phiên nhau sản xuất tự cấp, tự túc. Triều đình quy định chặt chẽ việc tuyển chọn lính. Gia đình có từ ba đến bốn suất đinh (con trai) thì lấy một người sung vào hạng tráng (vào lính ngay), một người sung vào hạng quân (trù bị); gia đình có từ năm đến sáu suất đinh thì lấy hai người sung vào hạng tráng, một người sung vào hạng quân. Với chính sách này, năm 1470, để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh với giặc Chiêm Thành, vua Lê Thánh Tông đã huy động được 26 vạn quân tinh nhuệ.

Nhìn chung, các triều đại phong kiến Việt Nam khi kết thúc kháng chiến chống ngoại xâm đều thực hiện giảm quân số thường trực và chú trọng xây dựng lực lượng dự bị hùng hậu. Quân đội thường trực được bố trí chủ yếu ở các vị trí chiến lược và sẵn sàng mở rộng lực lượng khi đất nước có chiến tranh. Kế sách giữ nước và nghệ thuật tổ chức lực lượng vũ trang này đã góp phần tạo nên sức mạnh to lớn của dân tộc, đánh thắng quân xâm lược có ưu thế hơn gấp nhiều lần về quân số, vũ khí trang bị và khả năng tiếp tế hậu cần.

Xây dựng lực lượng DBĐV là quy luật phổ biến trong duy trì sức mạnh quân sự của các quốc gia

Trong lịch sử quân sự thế giới, xây dựng lực lượng DBĐV được các quốc gia áp dụng để duy trì, củng cố tiềm lực, sức mạnh quân sự, chuẩn bị và tiến hành chiến tranh. Từ cuối thế kỷ XVIII, quan niệm về lực lượng DBĐV và xây dựng lực lượng DBĐV đã được các nhà nước nhận thức đầy đủ. Bởi trong giai đoạn hòa bình, không một quốc gia nào có đủ khả năng duy trì một đội quân thường trực cần phải có như trong thời chiến, mà đều thực hiện kết hợp giữa xây dựng quân thường trực với lực lượng DBĐV.

Xây dựng lực lượng DBĐV trong thời bình để duy trì sức mạnh quân sự cần thiết, giảm nhẹ gánh nặng về chi phí quân sự của đất nước, tập trung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội. Khi chiến tranh xảy ra sẽ thực hiện huy động lực lượng DBĐV để bổ sung cho quân thường trực, đáp ứng nhanh chóng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu.

Theo Ph.Ăngghen, đối với cách mạng vô sản, để vũ trang bảo vệ thành quả của CNXH, việc thi hành chế độ nghĩa vụ quân sự phổ thông và xây dựng lực lượng dự bị sẽ giảm gánh nặng chi phí quân sự, bảo đảm thực hiện việc huấn luyện quân sự cho đông đảo quần chúng công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô đã động viên được hàng triệu người và khối lượng vật chất khổng lồ cho chiến tranh, nhờ thực hiện chiến lược xây dựng lực lượng DBĐV. Trong mấy tháng đầu chiến tranh, quân đội Liên Xô tổn thất gần 2 triệu người, tuy nhiên đã không ngừng được bổ sung lực lượng và chỉ trong vòng nửa năm đã tăng lên 10 triệu quân. Đến năm 1945, thời điểm động viên cao nhất, quân số của quân đội Liên Xô lên tới 22 triệu quân. Binh lực của Liên Xô không chỉ có 4,3 triệu quân thường trực, mà còn có 27 triệu quân dự bị đã được xây dựng từ trước và trong quá trình chiến tranh(3).

Xuất phát từ chiến lược bảo vệ quốc gia, tình hình kinh tế, chính trị và truyền thống lịch sử, hiện nay các quốc gia trên thế giới đều quan tâm xây dựng lực lượng DBĐV, với quan điểm và cách thức phổ biến là: 1) xây dựng lực lượng DBĐV với quy mô thích hợp, phản ứng nhanh, động viên nhanh; 2) tổ chức lực lượng DBĐV đa dạng, thích hợp với yêu cầu nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang thường trực; 3) thực hiện phát triển cân đối, đồng bộ giữa quân thường trực và lực lượng dự bị; 4) bồi dưỡng nhân tài cho lực lượng dự bị, lấy đào tạo, bồi dưỡng lực lượng cốt cán chuyên môn làm trọng điểm; 5) pháp chế hóa việc xây dựng và sử dụng lực lượng DBĐV; 6) tăng cường giáo dục ý thức quốc phòng cho toàn dân và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các quan chức của hệ thống chính trị(4).

3. Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng lực lượng dự bị động viên

Xây dựng lực lượng DBĐV hùng hậu là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Thể hiện sự trung thành, vận dụng sáng tạo học thuyết quân sự Mác - Lênin, kế thừa và phát huy kinh nghiệm, truyền thống, kế sách, nghệ thuật giữ nước của cha ông và tiếp thu tinh hoa quân sự thế giới; đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị của Việt Nam cũng như bối cảnh quốc tế và khu vực.

Xây dựng lực lượng DBĐV hùng hậu còn là sự cụ thể hóa quan điểm kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa xây dựng, phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, kết hợp quốc phòng với kinh tế. Lực lượng DBĐV được xây dựng tốt sẽ làm nòng cốt trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, trong xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc.

Trong thời bình, lực lượng DBĐV phối hợp chặt chẽ với lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng công an, đấu tranh phòng chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, góp phần tăng thêm sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân địa phương trong khu vực phòng thủ, tham gia giải quyết các điểm nóng chính trị, xã hội trên địa bàn. Lực lượng DBĐV có chất lượng cao còn là lực lượng nòng cốt của địa phương trong phòng, chống thiên tai, tham gia tìm kiếm cứu nạn, bảo vệ, giúp đỡ nhân dân.

Khi chiến tranh xảy ra, lực lượng DBĐV được bổ sung cho quân đội thường trực theo lệnh động viên sẽ tạo nên sức mạnh quân sự cần thiết để đối phó với ngoại xâm, nhất là trong thời kỳ đầu của chiến tranh. Do vậy, xây dựng lực lượng DBĐV giữ vị trí quan trọng đặc biệt trong chiến lược quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, trong công cuộc xây dựng lực lượng quân đội, lực lượng vũ trang ở địa phương.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị với nhiều chủ trương, quan điểm mới về lực lượng DBĐV.

Chỉ thị số 16-CT/TW ngày 05-10-2002 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng DBĐV xác định: “Tổ chức xây dựng các đơn vị dự bị động viên có chất lượng toàn diện, chú trọng nâng cao chất lượng về chính trị, không ngừng nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân nhân dự bị; quản lý và huấn luyện chặt chẽ, bảo đảm vũ khí trang bị, vật chất hậu cần để sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ trong mọi tình huống diễn ra trên địa bàn và kịp thời bổ sung cho lực lượng thường trực của Quân đội theo yêu cầu”(5).

Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25-10-2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới xác định, xây dựng lực lượng DBĐV hùng hậu, có chất lượng cao. Để thực hiện tốt Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, cùng với đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Chú trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên”(6). Đại hội XIII nhấn mạnh nhiệm vụ “Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao”(7).

Các quan điểm của Đảng đã chỉ rõ, xây dựng lực lượng DBĐV phải được tiến hành một cách toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, nhằm nâng cao trình độ chính trị, quân sự, chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ sẵn sàng chiến đấu và phải được quản lý chặt chẽ.

Hiến pháp năm 2013 có nhiều quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong tham gia xây dựng lực lượng DBĐV. Luật Lực lượng dự bị động viên (năm 2019) quy định rõ về xây dựng, huy động lực lượng DBĐV; về chế độ, chính sách, kinh phí bảo đảm và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xây dựng, huy động lực lượng DBĐV.

4. Quan điểm, giải pháp xây dựng lực lượng dự bị động viên trong thời kỳ mới

Quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng lực lượng DBĐV trong thời kỳ mới, cần thực hiện tốt một số quan điểm, giải pháp cơ bản:

Thứ nhất, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng trong xây dựng lực lượng DBĐV.

Khoản 1, Điều 3, Luật Lực lượng dự bị động viên quy định nguyên tắc xây dựng, huy động lực lượng DBĐV phải: “Đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý tập trung, thống nhất của Chính phủ và sự chỉ huy, chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng”(8). Sự lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng lực lượng DBĐV thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: tư tưởng chính trị, tổ chức, quân sự, hậu cần, kỹ thuật; trong tất cả các khâu, các bước xây dựng và huy động sử dụng; trong mọi nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập…

Đảng lãnh đạo việc xây dựng lực lượng DBĐV theo phương thức của Đảng cầm quyền. Đảng vạch ra đường lối, chủ trương, nhiệm vụ xây dựng quân đội, trong đó có lực lượng DBĐV. Trên cơ sở các chủ trương của Đảng, Nhà nước thể chế hóa thành các chính sách, pháp luật để quản lý, điều hành mọi hoạt động xây dựng lực lượng DBĐV.

Đảng kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng thông qua hoạt động của các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và dựa vào ý kiến của nhân dân. Đảng lãnh đạo việc xây dựng lực lượng DBĐV thông qua hoạt động tổ chức, chỉ đạo, tuyên truyền vận động, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, chính sách, pháp luật của các tổ chức đảng và đảng viên các cấp, thông qua uy tín và vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng là cơ sở bảo đảm sự phối hợp của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội, lôi cuốn được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia thực hiện nhiệm vụ xây dựng, huy động lực lượng DBĐV.

Việc xây dựng và huy động lực lượng DBĐV ở các địa phương phải đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy địa phương, thông qua nghị quyết, chỉ thị, các biện pháp kiểm tra thực hiện; thông qua công tác tư tưởng, tổ chức, chính sách, vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên và tổ chức đảng. Cần đề phòng nhận thức cho rằng đã có chính quyền và cơ quan quân sự thì cấp ủy đảng chỉ cần tập trung vào công tác xây dựng đảng, vận động quần chúng… còn việc xây dựng lực lượng DBĐV là của chính quyền, cơ quan quân sự và các đơn vị quân đội. Cách hiểu đó là hoàn toàn sai lầm, bởi không lãnh đạo chặt chẽ công tác xây dựng lực lượng DBĐV là thiếu khuyết một trong những nội dung nhiệm vụ quan trọng của công tác quân sự, quốc phòng ở địa phương, cơ sở. 

Thứ hai, bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong mọi hoạt động xây dựng và huy động lực lượng DBĐV.

Nguyên tắc pháp chế nhằm duy trì trật tự, kỷ cương xã hội và tạo môi trường lành mạnh để hoạt động xây dựng lực lượng DBĐV có chất lượng cao. Đồng thời, là thước đo hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước đối với xây dựng lực lượng DBĐV. Để tăng cường pháp chế, giữ vững trật tự, kỷ cương trong xây dựng lực lượng DBĐV, phải triển khai thực hiện nghiêm Luật Lực lượng dự bị động viên; nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng lực lượng DBĐV. Loại ra ngoài hệ thống pháp luật các văn bản về xây dựng lực lượng DBĐV không còn phù hợp. Khắc phục tình trạng các quy định chỉ dừng lại ở những nguyên tắc chung, muốn thực hiện phải có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành.

Trong quá trình bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật quy định về xây dựng lực lượng DBĐV, phải phản ánh đúng quy luật và yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với quan điểm, chủ trương của Đảng. Trong xây dựng, ban hành quyết định và thực hiện các khâu, các bước của công tác xây dựng lực lượng DBĐV, cơ quan quản lý không được vượt ra khỏi phạm vi thẩm quyền do luật định.

Tăng cường pháp chế đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế -xã hội, công chức, viên chức nhà nước, công dân phải thực hiện nghiêm, thống nhất Luật Lực lượng dự bị động viên và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, giải thích, hướng dẫn thực hiện Luật cho mọi thành viên trong xã hội bằng nhiều hình thức, biện pháp. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Luật Lực lượng dự bị động viên. Thiết lập quy chế nghiêm ngặt về trách nhiệm đối với mọi chủ thể khi vi phạm các quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Thứ ba, bảo đảm tính kế hoạch, bí mật, an toàn trong xây dựng lực lượng DBĐV.

Bảo đảm tính kế hoạch trong quản lý nhà nước là một nguyên tắc cơ bản, cũng là đặc trưng của quản lý nhà nước XHCN. V.I. Lênin cho rằng: “không có một tổ chức nhà nước có kế hoạch có thể khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo hết sức nghiêm khắc một tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và phân phối sản phẩm, thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được”(9). Kế hoạch của nhà nước trong xây dựng lực lượng DBĐV nhằm bảo đảm cho hoạt động này diễn ra một cách chủ động, liên tục. Đây là cơ sở cho việc lập kế hoạch xây dựng lực lượng DBĐV của các bộ, ngành, các địa phương; tránh lối làm việc tùy tiện, thụ động. Xây dựng lực lượng DBĐV bao gồm tiến hành nhiều biện pháp mang tính pháp lý chứ không chỉ là nghiệp vụ chuyên môn. Hơn nữa, trong tình huống đất nước có chiến tranh, với khối lượng công việc rất lớn, nếu không biết việc gì làm trước, việc gì làm sau, ai làm và làm như thế nào, sẽ dẫn đến hậu quả khó lường.

Thực tế cho thấy, việc xây dựng lực lượng DBĐV phải có kế hoạch cụ thể từ trong thời bình. Khoản 1, Điều 8, Luật Lực lượng dự bị động viên quy định: “Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ lập Kế hoạch nhà nước về xây dựng và huy động lực lượng dự bị động viên”(10). Trên cơ sở kế hoạch tổng thể của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương lập kế hoạch xây dựng, huy động lực lượng DBĐV của ngành, địa phương. Các đơn vị quân đội lập kế hoạch huy động, tiếp nhận lực lượng DBĐV của đơn vị. Nhà nước quy định kế hoạch xây dựng và huy động lực lượng DBĐV là tuyệt mật. Vì vậy, việc xây dựng, quản lý, sử dụng kế hoạch phải tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn, bí mật. Các cấp, các ngành, các cơ quan, địa phương, đơn vị quân đội phải có những biện pháp bảo đảm an toàn cho con người và phương tiện trong quá trình huấn luyện, diễn tập, tập trung, vận chuyển, giao nhận lực lượng DBĐV.

Thứ tư, phát huy sức mạnh toàn dân tham gia xây dựng lực lượng DBĐV.

Đảng ta khẳng định, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt. Quan điểm này thể hiện sự trung thành của Đảng với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin: nhân dân là gốc của quyền lực nhà nước(11), và kế thừa truyền thống toàn dân đánh giặc giữ nước của dân tộc ta.

Đảng chỉ rõ, phải luôn phát huy vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân”(12); “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”(13).

Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng lực lượng DBĐV cần có những hình thức tổ chức hợp lý. Hiện nay có hai hình thức tham gia của nhân dân trong xây dựng lực lượng DBĐV là trực tiếp và gián tiếp. Tham gia trực tiếp: công dân tham gia bình xét việc xếp quân nhân dự bị vào đơn vị DBĐV; tự mình đóng góp vật chất, tinh thần trong xây dựng, huy động lực lượng DBĐV; thảo luận, góp ý kiến vào quá trình xây dựng đạo luật về lực lượng DBĐV; kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước đối với việc xây dựng lực lượng DBĐV; thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật trong xây dựng, huy động lực lượng DBĐV. Tham gia gián tiếp: được thực hiện thông qua các tổ chức xã hội như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam… để xây dựng, huy động lực lượng DBĐV. Hai hình thức này cần bảo đảm hiệu quả, thiết thực.

Thứ năm, kết hợp quốc phòng với kinh tế trong xây dựng lực lượng DBĐV.

Vận dụng học thuyết quân sự Mác - Lênin, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc, Đảng ta xác định cần kết hợp kinh tế với quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh càng đặc biệt quan trọng đối với nước ta trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, phải có ý thức, có kế hoạch tổ chức, chuẩn bị, khéo kết hợp giải quyết một cách thích đáng những yêu cầu riêng khác nhau của nền kinh tế và của quốc phòng, nhằm đạt tới: Mỗi bước phát triển của công cuộc xây dựng đất nước tạo thêm điều kiện cho khả năng bảo vệ Tổ quốc; mỗi bước tăng cường sức mạnh kinh tế là một bước nâng cao sức mạnh quốc phòng; trong khi tập trung xây dựng vẫn phải chuẩn bị đối phó với chiến tranh có thể xảy ra. Xây dựng lực lượng DBĐV chính là quán triệt và thực hiện quan điểm của Đảng về kết hợp kinh tế với quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Xây dựng lực lượng DBĐV phải bảo đảm yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế của địa phương trong cả thời bình và thời chiến. Trong thời bình, việc giao chỉ tiêu nhiệm vụ xây dựng, huy động lực lượng DBĐV cho các bộ, ngành, địa phương phải tính đến nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế. Quy định chỉ tiêu huấn luyện hằng năm phải bảo đảm tương ứng với khả năng nền kinh tế và nhiệm vụ bảo đảm sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, địa phương. Các chế độ chính sách không vượt quá mặt bằng chung của xã hội và khả năng bảo đảm của nền kinh tế. Tiết kiệm trong chi tiêu và chi đúng, đủ. Tận dụng tối đa khả năng cung cấp nguồn lực của các thành phần kinh tế, hạn chế việc phải dự trữ tập trung. 

Trong chiến tranh, cần quy định tỷ lệ nhân lực, phương tiện kỹ thuật được giữ lại để duy trì sản xuất, phát triển kinh tế. Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong xây dựng lực lượng DBĐV phải vừa tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế, giữ vững ổn định xã hội, vừa từng bước nâng cao sức mạnh của quân đội, khả năng quốc phòng của từng địa phương và trên phạm vi cả nước.

5. Kết luận

Xây dựng lực lượng DBĐV là nhiệm vụ chiến lược quan trọng, xuyên suốt, được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị cần bám sát chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, tình hình thực tế của địa phương, đơn vị để triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm xây dựng lực lượng DBĐV ngày càng hùng hậu, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

_________________

Ngày nhận bài: 12-3-2024; Ngày bình duyệt: 17-3-2024; Ngày duyệt đăng: 19-4-2024.

(1) Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên),Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.303.

(2), (8), (10) Quốc hội: Luật Lực lượng Dự bị động viên, số 53/2019/QH14, ngày 26-11-2019, Hà Nội, 2019.

(6) ĐCSVN:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.312.

(3), (4) Bộ Tổng tham mưu: Công tác động viên quân đội, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.55, 89.

(5) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.61, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, tr.828.

(7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I,Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr.277.

(9) V.I. Lênin: Toàn tập, t.36, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.368.

(11) Xem: V.I. Lênin: Toàn tập, t.36, Sđd, tr.597.

(12), (13) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 28-11-2013, Hà Nội, 2013.

Thông tin tuyên truyền