Trang chủ    Diễn đàn    Quan điểm của Đảng về thực hành dân chủ trong thời kỳ đổi mới
Thứ năm, 05 Tháng 1 2023 09:20
2653 Lượt xem

Quan điểm của Đảng về thực hành dân chủ trong thời kỳ đổi mới

(LLCT) - Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã khẳng định: Dân chủ là mục tiêu, là động lực phát triển đất nước; cần xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, mỗi ngành, trên tất cả các lĩnh vực. Bài viết trên cơ sở khái quát những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hành dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, qua đó rút ra một số bài học kinh nghiệm nhằm đưa thực hành dân chủ đi vào thực chất.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân xã Phong Phú, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình - Ảnh: vietnamplus.vn

1. Quan điểm của Đảng về thực hành dân chủ

Thực hành dân chủ là việc triển khai trên thực tế toàn bộ tư tưởng, quan điểm cũng như hiện thực hóa địa vị dân chủ về mặt pháp lý của người dân trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bằng hệ thống chuẩn mực của Hiến pháp và pháp luật được cụ thể hóa bằng cơ chế, chính sách, quy định, nguyên tắc... để bảo đảm cho mọi người dân thực hiện quyền làm chủ của mình.

Trải qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhận thức của Đảng về dân chủ và thực hành dân chủ ngày càng cụ thể, sâu sắc hơn. Với mục tiêu xây dựng một nền dân chủ thực chất, toàn diện, dân chủ, xuất phát từ nhân dân và vì nhân dân. Vị trí làm chủ của nhân dân được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Thực hành dân chủ trên lĩnh vực chính trị

Dân chủ trong lĩnh vực chính trịlà quyền lực của nhân dân được phát huy trong đời sống chính trị. Trước hết, đó là quyền công dân, quyền con người, quyền được bình đẳng trước pháp luật; quyền bầu cử, ứng cử vào Quốc hội và các cơ quan nhà nước khác; quyền tự do ngôn luận, quyền tham gia các tổ chức chính trị trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật…

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam vừa thể hiện được các giá trị dân chủ phổ quát của nhân loại, vừa thể hiện những giá trị đặc trưng, phản ánh bản sắc, đặc điểm văn hóa, truyền thống dân tộc Việt Nam. Thực hành dân chủ trong Đảng, dân chủ trong hệ thống chính trị, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Nội dung cốt lõi là tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, gắn với trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trong xây dựng Đảng, Nhà nước pháp quyền XHCN.

Từ đòi hỏi của thực tiễn, Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, Đảng đã chỉ rõ phải: “Ra sức cải tiến, không ngừng hoàn thiện, nâng cao hiệu lực của các hình thức dân chủ đại diện, cần đặc biệt quan tâm tìm tòi, thử nghiệm, áp dụng các hình thức thích hợp có hiệu quả về dân chủ trực tiếp ở cơ sở”(1). Ngày 18-02-1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, xác định quan điểm, chủ trương xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là lần đầu tiên Đảng ta ban hành một văn bản  iêng để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở, đánh dấu bước chuyển biến nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ XHCN. Ngày 28-3-2002, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 10-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Ngày 7-01-2016, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Kết luận số 120-KL/TW về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở(2)...

Trên cơ sở quan điểm của Đảng, Nhà nước cụ thể hóa quyền làm chủ của nhân dân bằng các nghị quyết, chính sách, pháp luật như: Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (ban hành năm 2007); Nghị định số 04/2015/NĐ-CP, ngày 09-01-2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 149/2018/NĐ-CP về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc… Ngoài ra, còn có Quy chế về người phát ngôn của các cơ quan nhà nước, quyền được tiếp cận thông tin của báo chí và người dân, quyền khiếu nại, tố cáo, quyền theo tôn giáo và không theo tôn giáo của người dân… cũng được ban hành. Những quy định này thể hiện rõ nét quan điểm của Đảng về mở rộng và hiện thực hóa quyền dân làm chủ của nhân dân.

Như vậy, dân chủ trong lĩnh vực chính trị đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện quyền tự do, dân chủ, quyền công dân và quyền con người, đồng thời quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức, cơ quan trong bảo đảm các quyền của nhân dân, khẳng định người dân có quyền thực hiện những gì pháp luật không cấm.

Thực hành dân chủ trong lĩnh vực kinh tế

Dân chủ trên lĩnh vực kinh tế là một nội dung quan trọng, thể hiện mọi quyền lực kinh tế thuộc về người dân, vì lợi ích của người dân. Các quyền dân chủ được bảo đảm bằng Hiến pháp, pháp luật và được thực thi bởi các thiết chế nhà nước, trở thành nguyên tắc ứng xử trong đời sống kinh tế.

Dân chủ về kinh tế ở nước ta thể hiện: Mọi công dân đều có quyền sở hữu đối với nguồn lực sản xuất, dựa trên trình độ, năng lực kinh tế của mình, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Các công dân đều là chủ sở hữu nguồn lực mà họ tham gia vào một hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh nhất định trong mỗi thành phần kinh tế. Người dân có quyền sở hữu, quyền sử dụng và quyền được hưởng lợi ích kinh tế từ kết quả sử dụng đối tượng sở hữu đó.

Thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và có sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền. Trong hoàn cảnh đó, Đảng ta xác định: “Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế, bảo đảm cho mọi người được tự do làm ăn theo luật pháp”(3). Đây là một bước tiến mới trong nhận thức về dân chủ trên lĩnh vực kinh tế của Đảng. Hướng vào sự tôn trọng quyền sở hữu các nguồn lực sản xuất của người dân và bảo đảm cho mọi người dân được tự do làm ăn theo luật pháp, tự lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh.

Tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Những nhận thức có giá trị định hướng trên đây cần được tiếp tục cụ thể hóa phù hợp với từng giai đoạn phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”(4). Đại hội XIII của Đảng làm rõ hơn vai trò, vị trí của từng thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội(5).

Chủ trương của Đảng về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế tuân theo pháp luật và là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hoạt động trong nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau, chính là cơ sở để đổi mới và xây dựng cơ chế dân chủ về kinh tế ở Việt Nam.

Dân chủ trong kinh tế còn thể hiện ở quyền tự chủ của công dân trong hoạt động kinh tế.Công dân có quyền lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh là tư nhân hay tập thể hoặc công ty cổ phẩn. Công dân có quyền kinh doanh trong các ngành, nghề pháp luật không cấm. Để thực hiện quyền tự chủ trên lĩnh vực kinh tế của công dân, Đại hội XIII khẳng định: “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, tạo môi trường thuận lợi công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động”(6).

Nhân dân có quyền được hưởng lợi ích từ kết quả hoạt động kinh tế. Nội dung của nguyên tắc này là mọi công dân đều có quyền được hưởng thành quả do hoạt động của họ trong nền kinh tế mang lại. Phân phối thành quả đó trong kinh tế thị trường là phân phối thu nhập. Công dân có quyền được góp ý vào các chủ trương, chính sách phát triển và giám sát các hoạt động kinh tế của Nhà nước.Công dân có quyền tham gia vào hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, tạo lập các công cụ kinh tế vĩ mô của Nhà nước và có nghĩa vụ thực hiện nó; đồng thời có quyền kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế của Nhà nước.

Thực hành dân chủ trên lĩnh vực văn hóa

Tiếp cận dưới góc độ hệ thống, lĩnh vực văn hóa trong đời sống xã hội bao gồm các hoạt động: sáng tạo, sản xuất văn hóa; phổ biến, giao lưu, trao đổi, truyền bá văn hóa; tiếp nhận, hưởng thụ văn hóa và hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn hóa. Do vậy,nội dung chủ yếu của thực hiện dân chủ trên lĩnh vực văn hóa thể hiện:

Thứ nhất, dân chủ trong sáng tạo, sản xuất văn hóa thông qua: quyền tự do sáng tạo và tổ chức sản xuất các sản phẩm văn hóa của các cá nhân và tổ chức trong xã hội.

Thứ hai, dân chủ trong giao lưu, trao đổi, truyền bá văn hóa là quyền được công bố, lưu thông, mua bán sản phẩm văn hóa, tổ chức các hoạt động văn hóa;

Thứ ba, dân chủ trong tiếp nhận, hưởng thụ, tôn trọng văn hóa là việc người dân được tham gia vào các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, được hưởng thụ các sản phẩm văn hóa.

Thứ tư, dân chủ trong khai thác, bảo quản di sản văn hóa dân tộc: quyền được tham gia bảo vệ, giữ gìn những di tích, phong tục, tập quán, lối sống v.v..

Trong qua trình lãnh đạo công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy về văn hóa, ban hành các nghị quyết chuyên đề định hướng thực hiện dân chủ về văn hóa, như: Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (năm 1998); Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới (năm 2008); Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (năm 2014), trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa (giai đoạn 1998-2013)...

Đánh giá chung về kết quả thực hiện dân chủ trên lĩnh vực văn hóa trong hơn 35 năm đổi mới, Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “nhận thức về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả tích cực. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hóa khởi sắc”(7). Đây là một thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước trong thời kỳ này.

Thực hành dân chủ trên lĩnh vực xã hội

Thực hành dân chủ trong lĩnh vực xã hội là quá trình mở rộng sự tham gia một cách chủ động của nhân dân vào giải quyết những vấn đề xã hội. Với tinh thần tất cả vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân, Đảng ta đặc biệt quan tâm tới thực hành dân chủ trong các chính sách xã hội. Định hướng triển khai các chính sách về giáo dục, y tế, hoạt động an sinh xã hội… của Đảng thể hiện rõ tinh thần dân chủ hóa, phát huy quyền dân chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực.

Qua các kỳ Đại hội, quan điểm về dân chủ trong lĩnh vực xã hội đã được hình thành và ngày càng khẳng định rõ, được cụ thể hóa trong Hiến pháp và pháp luật, gắn với quyền công dân, quyền con người, từng bước được thực hiện trong thực tiễn.

2. Thực tiễn và bài học kinh nghiệm nhằm đưa thực hành dân chủ đi vào thực chất

2.1. Ưu điểm trong thực hành dân chủ

Cùng với quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đẩy mạnh thực hành dân chủ XHCN và đã đạt được những bước tiến rất quan trọng.Ý thức dân chủ, năng lực thực hành dân chủ của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Nhiều chủ trương, biện pháp nhằm phát huy vai trò tích cực, chủ động của nhân dân đã được thực hiện hiệu quả. Thể chế thực thi các quyền làm chủ của nhân dân từng bước được xác lập, cụ thể hóa và đi vào cuộc sống.

Trong lĩnh vực chính trị, dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội được mở rộng và phát huy hiệu quả tích cực. Hệ thống chính trị đổi mới theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; dân chủ hóa, công khai, minh bạch trong phương thức hoạt động. Sự phát triển của nền dân chủ XHCN là thước đo sự trưởng thành của CNXH ở Việt Nam mà biểu hiện cao nhất và tập trung nhất là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước thay mặt nhân dân giữ quyền quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế, xã hội, văn hóa... Qua đó, nền dân chủ XHCN càng được bảo đảm phát triển vững chắc và hoàn thiện không ngừng. Quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng và được quy định rõ trong các văn bản pháp lý. Vai trò giám sát và phản biện xã hội của nhân dân được phát huy. Đấu tranh phản bác kịp thời và hiệu quả các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch về vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.

Trong lĩnh vực kinh tế, dân chủ hóa ngày càng mở rộng. Phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp... Công bằng trong phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.

Trong lĩnh vực văn hóa, các chủ trương, đường lối, chính sách về bảo đảm quyền văn hóa, nhất là quyền tự do trong sáng tạo, hoạt động văn hóa, quyền bình đẳng trong hưởng thụ thành quả văn hóa ngày càng được bổ sung, hoàn thiện.

Trên phương diện xã hội, thực hành dân chủ ngày càng toàn diện và sâu sắc. Quyền công dân gắn với quyền con người được đề cao, tôn trọng và bảo vệ bằng pháp luật, các chính sách xã hội được thực hiện với hiệu quả cao trên tinh thần xã hội hóa. Đã xây dựng được các thể chế và thiết chế bảo đảm các quyền chính trị, dân sự, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền của nhóm yếu thế, người có tín ngưỡng, tôn giáo. Công tác tuyên truyền, giáo dục, nghiên cứu về quyền con người có bước phát triển tích cực. Hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người được đẩy mạnh.

2.2. Một số hạn chế

Đại hội XIII của Đảng đánh giá, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hành dân chủ còn một số hạn chế: “Một số tổ chức cơ sở Đảngmột bộ phận cán bộ đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân, chưa kịp thời giải quyết các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người dân. Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật...”(8).       

Về chính trị: Việc thực hành quan điểm chỉ đạo của Đảng về dân chủ ở nhiều nơi còn mang tính hình thức. Dân chủ trong Đảng có vai trò quyết định, chi phối dân chủ trong hệ thống chính trị và toàn xã hội, nhưng có lúc, có nơi chưa thực hiện đầy đủ, chưa thực sự thúc đẩy phát triển dân chủ trong xã hội. Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở một số nơi rơi vào hình thức. Chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng thành pháp luật, quy định... Hệ thống pháp luật của Việt Nam có mặt còn chưa đồng bộ, chưa ổn định gây khó khăn cho các cơ quan thi hành pháp luật và nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ trong xã hội... Những hạn chế đó cần sớm được khắc phục để nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân và thực hành quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn ngày càng rộng rãi và thực chất.

Về kinh tế: đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới về kinh tế. Một số công trình, dự án khi được triển khai, xây dựng đã không nhận được sự đồng thuận của nhân dân, gây thất thoát, lãng phí lớn về vốn. Vẫn còn những khúc mắc trong giải quyết quan hệ giữa Nhà nước và người dân đối với quyền sở hữu và quyền sử dụng đất. Quyền bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nhất là việc cấp phép đăng ký kinh doanh đối với các chủ kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều khâu và tốn nhiều thời gian…

Về văn hóa: Có hiện tượng lợi dụng dân chủ đòi hỏi tự do tư tưởng, tự do sáng tác, sử dụng mạng xã hội bày tỏ quan điểm cá nhân, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội.Trong hoạt động sáng tạo cũng xuất hiện dạng “dân chủ vô lối”, bất chấp pháp luật, thuần phong mỹ tục, bắt chước phương Tây, gây phản cảm và bức xúc dư luận xã hội.Trong tổ chức sản xuất, nhiều vi phạm quyền tác giả và sở hữu trí tuệ. Còn có sự mất cân bằng, sự chênh lệch lớn trong hưởng thụ, tiếp cận văn hóa giữa đồng bào dân tộc thiểu số với người dân các vùng miền khác (vùng đồng bằng, đô thị). Những quy định về xử phạt những hành vi vi phạm về văn hóa quá nhẹ, không mang tính răn đe, như: cấp phép biểu diễn, trình diễn nghệ thuật, âm nhạc, thời trang, thi sắc đẹp, người mẫu…

Về xã hội: Quyền giám sát của người dân vào quá trình xây dựng và thực thi chính sách an sinh xã hội còn hạn chế. Việc quản lý chưa sâu sát trong thực hiện chính sách an sinh xã hội, còn để xảy ra hiện tượng tiêu cực, tham nhũng. Mức độ bao phủ của một số chương trình an sinh xã hội chưa rộng khắp.

2.3. Bài học kinh nghiệm nhằm đưa thực hành dân chủ vào thực chất

Một là, tiếp tục hoàn thiện Quy chế dân chủ cho phù hợp với từng loại hình cơ sở

Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Muốn vậy, Quy chế dân chủ cần được xây dựng cho từng loại cơ sở như xã, phường, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu, cơ quan hành chính, v.v.. để phù hợp với đặc điểm của từng loại cơ sở.

Hai là, hoàn thiện cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, theo hướng tăng cường phát huy quyền làm chủ của nhân dân

Cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.Cần nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ tác động qua lại giữa các nhân tố của cơ chế này, trên cơ sở thượng tôn pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng bởi: Đảng lãnh đạo - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dân chủ trong Đảng là cơ sở để thực hành dân chủ trong xã hội. Nhà nước pháp quyền XHCN thượng tôn pháp luật nhằm bảo đảm tất cả các thành viên xã hội được bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm, bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân được thực hiện nghiêm túc. Nhân dân làm chủ là bản chất của chế độ dân chủ XHCN. Nhân dân làm chủ thông qua các cơ quan đại diện và làm chủ trực tiếp, qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát và dân thụ hưởng”.

Ba là, phát huy dân chủ đại diện, mở rộng dân chủ trực tiếp đặc biệt là ở cơ sở

Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở theo nghị quyết Đại hội XIII đề ra. Cần sâu sát ở cơ sở, tăng cường đối thoại, tiếp xúc với nhân dân, lắng nghe tâm tư, kịp thời giải quyết nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Phát huy dân chủ cơ sở gắn với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động ở cơ sở, đẩy mạnh xây dựng và nhân rộng các mô hình, cách làm hay trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Bốn là, tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực thực hành dân chủ của cán bộ, đảng viên và nhân dân

Năng lực thực hành dân chủ của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân bao hàm các yếu tố: kiến thức, kỹ năng, thái độ đối với vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng, trong xã hội. Kiến thức về vấn đề dân chủ của mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân dựa trên nền tảng kiến thức chung qua trình độ học vấn, hiểu biết thực tiễn cùng với hiểu biết về Đảng, Điều lệ, nghị quyết, quy chế, quy định của Đảng. Trên cơ sở kiến thức, cùng với kinh nghiệm thực tiễn hình thành nên kỹ năng thực hành dân chủ. Thái độ đối với vấn đề dân chủ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cả năng lực nhận thức, lập trường quan điểm và vấn đề tinh thần trách nhiệm, đạo đức, phong cách. Nâng cao nhận thức về dân chủ mang tính quyết định để hiện thực hóa dân chủ vào cuộc sống ngày càng sâu, rộng và đầy đủ hơn.

_________________

Ngày nhận bài: 05-12-2022; Ngày bình duyệt: 28-12-2022; Ngày duyệt đăng: 05-01-2023.

 

(1), Nguyễn Văn Thắng, Thực hành dân chủ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII, Tạp chí Văn hóa nghệ thuậtsố 500, tháng 6-2022.

(2) ĐCSVN: Nghị quyết số 06-NQ/HNTW ngày 29-3-1989, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) về kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng, nhiệm vụ ba năm tới, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-vi/nghi-quyet-so-06-nqhntw-ngay-2931989-hoi-nghi-lan-thu-sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-vi-ve-kiem-diem-hai-nam-thuc-1107.

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.102-103.

(4), (5), (6), (7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.129, 130-131, 64, 88-89.

 

ThS TÔ THANH TÙNG

                                                                      Khoa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

                                                                                          Học viện Kỹ thuật Quân sự

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền