Trang chủ    Thực tiễn    Nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy địa phương trong xây dựng lực lượng dự bị động viên
Thứ ba, 01 Tháng 3 2022 11:05
5092 Lượt xem

Nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy địa phương trong xây dựng lực lượng dự bị động viên

 

(LLCT) - Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có chất lượng cao là chủ trương chiến lược của Đảng, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn dân, nhằm củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Bài viết làm rõ thực trạng, đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy địa phương trong xây dựng lực lượng dự bị động viên, đáp ứng yêu cầu tình hình mới.

 

Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có chất lượng cao trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc - Ảnh: qdnd.vn

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là cấp ủy địa phương trong xây dựng lực lượng dự bị động viên (DBĐV) luôn là nhân tố cơ bản hàng đầu quyết định đến số lượng, cơ cấu, chất lượng và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng DBĐV. Đây là một khâu quan trọng, trực tiếp cụ thể hóa các quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng, đường lối chiến tranh nhân dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân của Đảng. 

Lực lượng DBĐV là một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, có vai trò hết sức to lớn trong xây dựng tiềm lực quân sự, quốc phòng của đất nước trong thời bình và đáp ứng yêu cầu khi có chiến tranh xảy ra; góp phần quan trọng tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh; góp phần củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, các hành động chống phá của các thế lực thù địch.

Xây dựng lực lượng DBĐV hùng hậu, có chất lượng cao là chủ trương chiến lược của Đảng, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn dân, nhằm củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thực tiễn qua các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cho thấy vị trí, vai trò quan trọng của lực lượng DBĐV. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng cấp ủy, tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội và Công an tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu...”(1)

Ngày nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều thay đổi rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Hòa bình hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch không ngừng chống phá cách mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực, chúng tiếp tục thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, những yếu kém trong quản lý kinh tế, xã hội, xử lý vi phạm kỷ luật của đảng viên ở nước ta… từ đó hạ thấp vai trò, uy tín của Đảng, tuyên truyền về “phi chính trị hóa” Quân đội, chia rẽ mối quan hệ đoàn kết quân với dân, với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tác động không nhỏ đến kết quả xây dựng lực lượng vũ trang nói chung và xây dựng lực lượng DBĐV nói riêng. Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”(2).

Nhận thức đúng vị trí, vai trò của lực lượng DBĐV, những năm qua, các cấp ủy địa phương thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và có nhiều đổi mới về nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành xây dựng lực lượng DBĐV. Chất lượng, hiệu quả xây dựng và hoạt động của lực lượng DBĐV đã có bước chuyển biến rõ nét trên tất cả các mặt, nhất là chất lượng chính trị. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã tổ chức tốt việc quán triệt Luật Lực lượng dự bị động viên, các chỉ thị, thông tư, hướng dẫn của cấp có thẩm quyền đối với công tác xây dựng lực lượng DBĐV. 

Nhiều địa phương đã thực hiện tốt việc kết hợp phân công đảng viên tham gia và phát triển đảng viên trong lực lượng DBĐV. Trong công tác xây dựng lực lượng DBĐV, các đơn vị nhận nguồn đã phối hợp chặt chẽ với địa phương tổ chức xây dựng kế hoạch động viên, tiến hành phúc tra, sắp xếp nguồn theo chỉ tiêu quy định và thực hiện tốt chế độ đăng ký, quản lý quân nhân dự bị và phương tiện kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân. 

Hiện nay, số quân nhân dự bị đã được sắp xếp, biên chế đạt 94,08% so với chỉ tiêu động viên được Chính phủ giao, trong đó sĩ quan dự bị đạt 81,26%, hạ sĩ quan, binh sĩ đạt 96%. Nhiều đơn vị đã sắp xếp đủ 100% quân số và có lượng dự phòng 10%; tỷ lệ đúng chuyên nghiệp quân sự của sĩ quan đạt 72,25%, gần đúng đạt 20,4%, không đúng 7,35%; hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị đạt 68,7%, gần đúng đạt 14,3%, không đúng 17%. Tỷ lệ đảng viên trong quân nhân dự bị (QNDB) đạt 5,5%, tỷ lệ đoàn viên đạt 33%, trong đó, tỷ lệ sĩ quan dự bị là đảng viên đã xếp vào các đơn vị DBĐV đạt 55,6%. Phương tiện kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân được đăng ký, quản lý, sắp xếp vào các đơn vị DBĐV đạt 100% chỉ tiêu, sẵn sàng huy động, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ khi cần thiết.

Căn cứ vào Luật và hướng dẫn của cấp trên, cấp ủy, tổ chức đảng ở các địa phương, đơn vị đã lãnh đạo chặt chẽ công tác tổ chức, biên chế, xây dựng lực lượng phù hợp với tình hình thực tiễn địa bàn và tính chất hoạt động của từng đơn vị. Công tác tập huấn, bồi dưỡng cán bộ và giáo dục, huấn luyện của phân đội có sự đổi mới căn bản, cả về chương trình, nội dung, tổ chức và phương pháp. Hàng năm, cả nước đã tổ chức được nhiều lớp tập huấn cho hàng nghìn lượt cán bộ. Công tác huấn luyện phân đội được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của Luật, đạt hiệu quả thiết thực. Nhiều địa phương đã kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện với hoạt động bảo vệ trị an trong các ngày lễ kỷ niệm lớn của đất nước, ngày Tết… Lực lượng DBĐV phối hợp chặt chẽ với các lực lượng khác ở địa phương, cơ sở tham gia giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Đặc biệt là, đã phối hợp tuyên truyền 75.823 buổi/29.946.856 lượt người; vận động được 7.367 học sinh bỏ học quay lại trường; thu hồi 1.787 súng các loại; triệt phá 52 héc ta diện tích trồng cây thuốc phiện; vận động dân không di cư 9.934 hộ/15.814 khẩu. 

Cấp ủy, tổ chức đảng ở các đơn vị nhận nguồn DBĐV đã lãnh đạo, chỉ đạo tốt việc phối hợp với địa phương tổ chức huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên. Hằng năm, tổ chức huấn luyện được gần 25% tổng số quân nhân dự bị đã sắp xếp theo biên chế. Diễn tập khu vực phòng thủ được tổ chức chặt chẽ, cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan chức năng làm tham mưu và công tác đảng, công tác chính trị trong diễn tập được thực hiện tốt đã góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ sẵn sàng chiến đấu của từng đơn vị. Việc đầu tư, sử dụng ngân sách, bảo đảm chế độ đối với quân nhân dự bị khi tập trung huấn luyện, kiểm tra sẵn sàng động viên được thực hiện đúng quy định của Luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng DBĐV.

Những kết quả đạt được đã khẳng định vai trò lãnh đạo của cấp ủy địa phương đối với lực lượng DBĐV. Đồng thời, khẳng định lực lượng DBĐV thực sự là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, chính quyền và nhân dân ở địa phương, là lực lượng nòng cốt trong công tác quân sự, quốc phòng địa phương, là một thành phần quan trọng trong xây dựng khu vực phòng thủ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế - xã hội địa phương phát triển.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn có những hạn chế, bất cập. Nhận thức của một số cấp uỷ, cán bộ, đảng viên chưa đầy đủ, chưa thấy hết ý nghĩa, vai trò của cấp uỷ địa phương trong lãnh đạo xây dựng lực lượng DBĐV; một số cấp  ủy chưa bám sát nhiệm vụ xây dựng lực lượng DBĐV của địa phương mình, ngành mình; công tác giáo dục chính trị, định hướng đấu tranh trên mặt trật chính trị tư tưởng chậm đổi mới, thiếu chủ động sắc bén, còn biểu hiện mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; công tác phát triển đảng viên trong lực lượng DBĐV ở một số địa phương, đơn vị chưa được quan tâm đúng mức. Việc quản lý quân nhân dự bị ở một số địa phương chưa chặt chẽ; có nơi quân nhân dự bị đi làm xa địa bàn chiếm đến 25% quân số. Trong khi đó, việc bảo đảm chế độ, chính sách đối với lực lượng DBĐV chậm được điều chỉnh, có địa phương việc bảo đảm chế độ còn thấp hơn quy định.

Để nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp ủy địa phương đối với xây dựng lực lượng DBĐV trong tình hình mới cần tập trung vào một số nội dung, biện pháp cơ bản sau: 

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy địa phương đối với nhiệm vụ xây dựng lực lượng dự bị động viên

Đề cao trách nhiệm của cấp ủy địa phương các cấp là nhân tố hàng đầu bảo đảm để xây dựng lực lượng DBĐV hùng hậu, có chất lượng ngày càng cao. Cấp ủy địa phương, theo chức năng, nhiệm vụ của mình cần tiếp tục quán triệt Kết luận số 41/KL-TW ngày 31-3-2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) “về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 16/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX); tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng DBĐV trong tình hình mới”; ra nghị quyết chuyên đề về nâng cao chất lượng lãnh đạo của cấp ủy cấp mình đối với công tác xây dựng lực lượng DBĐV; coi đây là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm cần tập trung lãnh đạo hàng năm ở địa phương. 

Cấp ủy địa phương các cấp phải chấp hành nghiêm cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác quân sự, quốc phòng địa phương, theo Nghị quyết 02/1987/NQ-TW của Bộ Chính trị khóa VI, Nghị quyết 28/2008/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa X); trong đó, cần phát huy vai trò của cấp ủy địa phương và chỉ huy trưởng cơ quan quân sự nhằm bảo đảm mọi quyết định của Đảng được tổ chức thực hiện một cách trực tiếp. Cơ quan quân sự địa phương tiếp tục tham mưu xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, gắn chặt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với thực hiện công tác quân sự, quốc phòng địa phương. Cơ quan chính trị các cấp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các tổ chức, các lực lượng ở địa phương nhận thức thống nhất về nội dung, cơ chế và chức năng, nhiệm vụ của các thành phần trong cơ chế, góp phần bảo đảm cho cơ chế được vận hành thông suốt, có hiệu lực và hiệu quả. Coi trọng việc chỉ đạo, quản lý, điều hành của chính quyền địa phương; năng lực sơ kết, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm xây dựng lực lượng DBĐV. Đề cao trách nhiệm của cấp ủy phải gắn chặt với phát huy vai trò của bí thư cấp ủy trong xây dựng lực lượng DBĐV trên địa bàn.

Để thực hiện tốt giải pháp này, cần thường xuyên củng cố, kiện toàn cấp ủy địa phương, nâng cao chất lượng cấp ủy viên, chăm lo bồi dưỡng cho cấp ủy và các cấp ủy viên kiến thức cơ bản về công tác quân sự, quốc phòng địa phương, tập trung vào xây dựng lực lượng DBĐV. Hằng năm, cấp ủy các cấp có kế hoạch cử cán bộ tham gia học tập, tập huấn kiến thức về xây dựng lực lượng DBĐV theo quy định, nhất là các cấp ủy viên theo dõi công tác quân sự, quốc phòng địa phương.

Hai là, lãnh đạo xây dựng đảng ủy quân sự địa phương vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao

Đảng ủy quân sự địa phương có vai trò quan trọng trong tổ chức sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội và sự nghiệp quốc phòng. Mọi đề xuất, tham mưu của cơ quan quân sự cho cấp ủy, chính quyền địa phương đều phải thông qua đảng ủy quân sự địa phương. Thường xuyên coi trọng xây dựng đảng ủy quân sự địa phương vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức là vấn đề quyết định đến nhiệm vụ xây dựng lực lượng DBĐV hùng hậu, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Nội dung xây dựng đảng ủy quân sự địa phương cần quán triệt và thực hiện tốt những yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn đảng theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương IV khóa XI, khóa XII, nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII. Thường xuyên củng cố đảng ủy đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý, nâng cao chất lượng sinh hoạt, xây dựng và thực hiện đúng quy chế, làm việc dân chủ, khoa học, hiệu quả. Coi trọng xây dựng khối đoàn kết, thống nhất của đảng ủy, làm hạt nhân đoàn kết giữa cơ quan quân sự với với các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương. 

Ba làtăng cường phối hợp giữa địa phương giao nguồn động viên và đơn vị nhận nguồn, thực hiện tốt công tác tạo nguồn, đăng ký, sắp xếp và quản lý quân nhân dự bị

Lực lượng DBĐV là một bộ phận của Quân đội nhân dân, trong thời bình phải tổ chức đăng ký, quản lý, huấn luyện, nâng cao chất lượng tổng hợp, sẵn sàng động viên xử lý các tình huống xảy ra. Vì thế, đẩy mạnh công tác phối hợp giữa các địa phương với các đơn vị nhận nguồn trong xây dựng lực lượng DBĐV là vấn đề rất quan trọng. Thực tiễn cho thấy, công tác phối hợp trong xây dựng lực lượng DBĐV ở các địa phương trên cả nước được duy trì thường xuyên, tương đối chặt chẽ và có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng so với yêu cầu vẫn còn nhiều bất cập. Trong đó, việc phối hợp tạo nguồn dự bị động viên cho cả địa phương và đơn vị nhận nguồn gặp nhiều khó khăn, nhất là trong điều kiện chỉ tiêu tuyển quân trên từng địa bàn ngày càng giảm, trong khi số quân nhân dự bị đến tuổi phải giải ngạch theo quy định ngày càng tăng, đó là chưa kể những biến động về quân số, do quân nhân dự bị đi lao động xa nơi cư trú v.v.. Thực trạng đó đòi hỏi sự phối hợp giữa địa phương và các đơn vị của quân khu phải có sự đổi mới, đi vào chiều sâu, vững chắc. Ngoài ra, cơ quan quân sự các cấp tham mưu cho cấp ủy, chính quyền tổ chức chu đáo việc tiếp nhận quân nhân xuất ngũ về địa phương, thực hiện tốt việc hướng nghiệp, dạy nghề cho quân nhân xuất ngũ, trên cơ sở đó, tổ chức làm tốt việc đăng ký, quản lý quân nhân dự bị theo phân cấp. 

Các đơn vị khung thường trực cần chủ động phối hợp với các địa phương cung cấp nguồn để thực hiện việc phúc tra, sắp xếp, quản lý nguồn quân nhân DBĐV và phương tiện kỹ thuật của nền kinh tế. Công tác sắp xếp, biên chế các đơn vị DBĐV phải bám sát phương châm: lấy đúng chuyên nghiệp quân sự làm chính, kết hợp với gần, gọn địa bàn, bảo đảm thuận lợi trong phúc tra, quản lý và động viên khi cần thiết. 

Thực hiện đúng, đủ quy trình theo hướng dẫn của Bộ Quốc phòng về biên chế, kiện toàn, sắp xếp, bổ nhiệm các chức vụ chỉ huy, quản lý đơn vị DBĐV cho sĩ quan, hạ sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật (khung B).Thực hiện miễn nhiệm, giải ngạch, phong, thăng quân hàm cho quân nhân dự bị đúng, đủ thủ tục, nguyên tắc, quy định. Trong đó, chú trọng phối hợp duy trì sinh hoạt đơn vị DBĐV kết hợp chi trả phụ cấp trách nhiệm quản lý đơn vị để nắm chắc số lượng, chất lượng chính trị, trình độ chuyên nghiệp quân sự của quân nhân và đơn vị DBĐV. 

Tăng cường công tác phối hợp giữa cơ quan quân sự địa phương với đơn vị chủ lực có quân nhân xuất ngũ, tổ chức huấn luyện chuyển loại chuyên nghiệp quân sự, nắm chắc chất lượng nguồn, tiếp nhận quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự về địa phương và đăng ký, sắp xếp, quản lý, theo dõi chặt chẽ nguồn DBĐV trên địa bàn để sẵn sàng động viên bàn giao cho đơn vị nhận nguồn.

Bốn là, lãnh đạo nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng chiến đấu cho quân nhân dự bị

Đây là khâu then chốt, quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng dự bị và các đơn vị DBĐV. Thực hiện tốt công tác huấn luyện sẽ bảo đảm cho quân nhân dự bị có trình độ kỹ, chiến thuật, khả năng động viên nhanh, sẵn sàng chiến đấu và thực hiện tốt các nhiệm vụ của địa phương. 

Trong những năm qua, các đơn vị DBĐV luôn quán triệt sâu sắc chỉ lệnh công tác quân sự, quốc phòng của Tổng Tham mưu trưởng, trực tiếp là mệnh lệnh huấn luyện của Tư lệnh Quân khu; đồng thời, bám sát đặc điểm địa bàn và nhiệm vụ từng đơn vị, địa phương để cụ thể hóa thành nghị quyết chuyên đề, chỉ thị, chương trình hành động, kế hoạch ở các cấp, nhằm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ huấn luyện lực lượng DBĐV. Triển khai làm tốt công tác chuẩn bị mọi mặt, từ khâu xác định tỷ lệ, chỉ tiêu, đối tượng huấn luyện, kiểm tra sẵn sàng động viên để giao cho từng đơn vị, địa phương đến khâu chuẩn bị cơ sở vật chất, thao trường, bãi tập, doanh trại v.v.. Chủ động rà soát cán bộ các cấp, sắp xếp ổn định tổ chức biên chế, nhất là đội ngũ cán bộ khung B. Chú trọng tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực toàn diện cho cán bộ các cấp (cả khung A và khung B), làm tiền đề nâng cao chất lượng huấn luyện cấp phân đội và quy mô cấp đại đội, tiểu đoàn là chủ yếu. 

Thực tiễn huấn luyện lực lượng DBĐV ở các địa phương cho thấy, các đơn vị luôn tích cực đổi mới nội dung, phương pháp huấn luyện sát với tình hình, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ địa bàn, địa phương, cơ sở. Coi trọng huấn luyện tập trung cho đối tượng là sĩ quan, hạ sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật chủ chốt đã được sắp xếp vào các đơn vị DBĐV để nâng cao trình độ chỉ huy, điều hành, quản lý bộ đội. Sau mỗi đợt huấn luyện, đều tiến hành sơ kết, tổng kết, làm cơ sở chỉ đạo, nhân rộng ra các đơn vị trong toàn quân khu thực hiện. Đồng thời, kết hợp chặt chẽ giữa đơn vị huấn luyện với địa phương để từng bước bảo đảm đầy đủ doanh trại, quân trang, chế độ tiêu chuẩn... phục vụ nhiệm vụ huấn luyện đạt kết quả tốt. Tích cực đổi mới công tác diễn tập lực lượng DBĐV theo hướng sát phương án, đặc điểm địa bàn và yêu cầu, nhiệm vụ tác chiến của khu vực phòng thủ, nhằm nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy cho cán bộ và khả năng hiệp đồng chiến đấu cho các đơn vị DBĐV.

Năm là, lãnh đạo thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với lực lượng DBĐV

Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần quan tâm lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ này. Thực tiễn hiện nay, ở một số địa phương, nhất là địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, biên giới việc bảo đảm chế độ theo quy định vẫn còn không ít khó khăn. Cấp ủyđảng, chính quyền, cơ quan quânsự địa phương phải thường xuyên tuyên truyền, phổ biến cho các tổ chức, các doanh nghiệp nhận thức rõ trách nhiệm tham gia xây dựng lực lượng vũ trang, hiểu rõ nhiệm vụ, vai trò của lực lượng DBĐV và những thuận lợi khó khăn trong xây dựng lực lượng DBĐV hiện nay. 

Trên cơ sở đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, từng doanh nghiệp để xây dựng quy chế phối hợp hoạt động, tạo điều kiện cho các tổ chức, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp tham gia thực hiện trách nhiệm của mình đối với xây dựng lực lượng vũ trang địa phương nói chung và lực lượng DBĐV nói riêng. Cụ thể hóa việc tổ chức thực hiện sự chỉ đạo thống nhất từ cấp trên đến cơ sở để các tổ chức, doanh nghiệp tham gia đầy đủ nhất. 

Xây dựng và hoàn thiện cơ chế hoạt động phối hợp, hiệp đồng giữa các đơn vị DBĐV với các tổ chức, các doanh nghiệp ở địa phương trong việc bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần, tham gia giải quyết các chính sách xã hội, chính sách hậu phương đối với lực lượng DBĐV, tạo cho cán bộ, chiến sĩ yên tâm phấn khởi, hăng hái phục vụ.

Do vậy, cơ quan quân sự các tỉnh cần tổ chức rà soát, thống kê cụ thể khả năng bảo đảm của địa phương, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch hỗ trợ những xã nghèo, đặc biệt khó khăn. Mặt khác, cần tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân cùng các tổ chức kinh tế, xã hội trên địa bàn tham gia xây dựng lực lượng DBĐV. Ngoài ra, cần khuyến khích cách làm sáng tạo, như: ưu tiên vay vốn, giao đất, giao rừng, tạo điều kiện cho gia đình quân nhân DBĐV phát triển sản xuất, nâng cao đời sống để họ yên tâm công tác.

__________________

(1), (2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.158,160.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2009), Kết luận số 41-KL/TW ngày 31 tháng 3 năm 2009 về tiếp tục thực hiện chỉ thị số 16-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên trong tình hình mới, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2008), Nghị quyết số 28/NQ-TW ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị khóa X về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới, Hà Nội.

3. Bộ Quốc phòng (2018), Báo cáo số 276/BC-BQP ngày 08/01/2018 của Bộ Quốc phòng về tổng kết 20 năm thực hiện Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên.

4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2020), Luật lực lượng dự bị động viên, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2020.

ThS  NGUYỄN HỮU TRUNG

Học viện Lục quân, Bộ Quốc phòng

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền