Trang chủ    Thực tiễn    Giải pháp thúc đẩy liên kết vùng ở đồng bằng sông Cửu Long
Thứ ba, 15 Tháng 6 2021 15:50
2361 Lượt xem

Giải pháp thúc đẩy liên kết vùng ở đồng bằng sông Cửu Long

(LLCT) - Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất của Việt Nam (đóng góp 50% sản lượng lúa, 95% lượng gạo xuất khẩu, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 70% các loại trái cây cả nước...), có vị trí giao thương thuận lợi với các nước ASEAN và tiểu vùng sông Mekong. Tuy nhiên, các tỉnh trong Vùng chưa tận dụng, khai thác, phát triển được lợi thế tương xứng và hiệu quả. Do vậy, liên kết vùng trong phát triển kinh tế là một khâu đột phá nhằm phát huy tối đa thế mạnh và năng lực cạnh tranh của Vùng.

Từ khóa: đồng bằng sông Cửu Long, liên kết kinh tế, liên kết sản xuất, liên kết vùng.

1. Sự cần thiết và ý nghĩa của liên kết vùng, liên kết nội vùng

Trên thế giới, liên kết trong nội vùng, giữa các vùng và giữa các quốc gia với nhau trong phát triển kinh tế, giao thông vận tải, gìn giữ hòa bình, phòng chống tội phạm, chống biến đổi khí hậu... không phải là vấn đề mới. Liên minh châu Âu (EU) được thế giới công nhận là tổ chức liên kết khu vực thành công nhất hiện nay với quá trình từ liên kết kinh tế chuyển sang chính trị - xã hội, phát triển thành thể chế siêu quốc gia. Hay liên kết của khu vực ASEAN, CPTPP, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) giữa ASEAN và 6 đối tác đã có FTA với ASEAN là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và New Zealand đã minh chứng cho xu thế đó.

Ở nước ta, vấn đề liên kết kinh tế, liên kết vùng là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong nhiều năm qua để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Việc liên kết vùng sẽ tạo ra những lợi thế cạnh tranh mới, phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương và cả vùng trong phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng - an ninh và trật tự xã hội, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và nâng cao đời sống nhân dân.

Phát triển bền vững và đồng đều giữa các vùng miền là một yêu cầu chính đáng trước sự phân hóa, chêch lệch ngày càng lớn về thu nhập giữa các vùng miền hiện nay. Sự chênh lệch về trình độ phát triển, về thu nhập, mức sống, về những điều kiện xã hội giữa các vùng sẽ là một trong những nguyên nhân dẫn đến bất ổn xã hội.

Liên kết vùng là sự thiết lập mối quan hệ hợp tác giữa các thành viên trong vùng và giữa các thành viên trong vùng với các thành viên khác ngoài vùng, đó là sự phân công, phối hợp với nhau nhằm khai thác những lợi thế của nhau, tạo ra mô hình tổ chức sản xuất mới, tạo ra sức mạnh mới mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn. Thực tiễn các mô hình tập đoàn kinh tế, các tổng công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia đã cho chúng ta thấy sức mạnh của các mô hình ấy và đó là một xu hướng tất yếu của một nền sản xuất lớn, là hướng đi đúng mà các nhà quản lý, chủ thể sản xuất ở ĐBSCL cần hướng đến. Bởi lẽ, liên kết vùng được thực hiện sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp trong phát huy tiềm năng, lợi thế của vùng, tiết kiệm nguồn lực đầu tư chung của xã hội, hạn chế di dân tìm việc làm, tạo gánh nặng xã hội cho các đô thị lớn và như thế sẽ có tác dụng phát triển hài hòa giữa các vùng miền, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế - xã hội cho đất nước.

2. Thực trạng liên kết vùng ở đồng bằng sông Cửu Long

Liên kết vùng ở ĐBSCL thời gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng:

Về tạo lập môi trường, Chính phủ đã ban hành một số văn bản quan trọng tạo khung khổ pháp lý cho thực hiện việc liên kết vùng như: Quyết định ban hành Quy chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương đối với các vùng kinh tế trọng điểm(1); Quyết định thành lập Tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm giai đoạn 2015-2020(2); Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo, Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm giai đoạn 2015-2020(3); Quyết định ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2016-2020(4)... Những văn bản này đã tạo hành lang pháp lý và thay đổi tư duy liên kết vùng, “đã có tác dụng thúc đẩy các sáng kiến liên kết giữa các địa phương trong vùng. Một số ban điều phối vùng tiếp tục là cơ chế kết nối các địa phương trong hợp tác phát triển”(5).

Một số địa phương như: Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang và Cà Mau đã thống nhất thỏa thuận hợp tác 11 lĩnh vực liên kết phát triển Vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long(6); Các tỉnh: Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An đã thống nhất một số nội dung liên kết trong phát triển vùng Đồng Tháp Mười; các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh đã tổ chức Hội thảo về chủ đề “Liên kết phát triển bền vững tiểu vùng duyên hải phía Đông đồng bằng sông Cửu Long”; Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã ký kết hợp tác về mặt nguyên tắc với 13 tỉnh thành vùng đồng bằng sông Cửu Long,... Đó là những dấu hiệu tốt cho sự chuyển biến về nhận thức dẫn đến hành động cụ thể trong liên kết sản xuất, liên kết vùng ở đồng bằng sông Cửu Long.

Về bộ máy quản trị vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long đã hình thành và đi vào hoạt động(7). Theo đó, cả 4 vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước có một Ban Chỉ đạo chung do một Phó Thủ tướng làm Trưởng ban và mỗi vùng kinh tế trọng điểm đã có 1 Hội đồng Vùng riêng, Chủ tịch Hội đồng do Chủ tịch một tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm đó luân phiên đảm nhận với nhiệm kỳ 2 năm. Về chức năng, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo, Hội đồng Vùng kinh tế trọng điểm cũng được quy định cụ thể(8), trong đó, Chủ tịch UBND các tỉnh trong thời gian luân phiên làm Chủ tịch Hội đồng Điều phối phát triển Vùng sẽ ký Quyết định thành lập Tổ Điều phối giúp việc cấp tỉnh.

Về nội dung, hình thức và quy mô liên kết được thực hiện rất phong phú. Các mô hình liên kết theo chuỗi giá trị, mô hình logistics, mô hình liên kết dọc, liên kết ngang từ khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm rất hiệu quả về kinh tế, xã hội, môi trường, thí dụ: Tập đoàn Lộc Trời, Công ty cổ phần nông nghiệp công nghệ cao Trung An đã liên kết với nông dân sản xuất hàng chục nghìn hecta lúa cùng giống, có chất lượng cao, có cùng quy trình sản xuất, chỉ dẫn nguồn địa lý, nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, cung cấp ra thị trường ổn định về chủng loại và chất lượng, được các nước đánh giá cao. Tập đoàn Trung Sơn, Tập đoàn Việt Úc trong liên kết sản xuất ngành tôm với quy mô lớn, kỹ thuật nuôi hiện đại, sạch, năng suất và hiệu quả cao, đã và đang phát huy lợi thế so sánh của vùng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng hiện đại. Hợp tác xã Tân Hiệp Phát liên kết trong sản xuất trồng chuối xuất khẩu ở Thới Lai, Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ, hay “vườn chuối triệu đô”của ông Huy - Long An, hoặc Công ty TNHH Kim Nhung, Đồng Tháp trong liên kết với nông dân đưa các loại hoa quả có lợi thế sản xuất ở đồng bằng sông Cửu Long như chuối, xoài,... ra nhiều thị trường khó tính của thế giới, nâng cao giá trị nông sản, tạo ra công ăn việc làm ổn định cho người dân nông thôn.

Nhìn chung, liên kết vùng ở ĐBSCL đạt những kết quả tích cực. “Các công trình hạ tầng mang tính kết nối vùng được hoàn thành, đưa vào sử dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, đẩy mạnh quá trình đô thị hóa và tăng cường liên kết vùng. Một số cực tăng trưởng, vùng lãnh thổ, đô thị lớn mang tính động lực tiếp tục phát huy vai trò đầu tàu, tạo tác động phát triển lan tỏa”(9).

Bên cạnh những kết quả đạt được, liên kết vùng ở ĐBSCL cũng còn những hạn chế:

Nhận thức, tư duy về liên kết vùng của các cấp chính quyền địa phương trong vùng tuy đã nâng lên nhưng vẫn còn mờ nhạt, dừng lại ở ý tưởng, chưa xác định rõ nội dung, trách nhiệm, thời gian thực thi các cam kết và chưa theo kịp nhu cầu đổi mới mạnh mẽ về mô hình sản xuất dưới tác động của hội nhập, và Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.

Thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong vùng, dẫn đến đầu tư dàn trải, trùng lắp, lãng phí nguồn lực vốn, như: tỉnh Kiên Giang đầu tư xây dựng nhà máy đường Bến Nhất, trong khi tỉnh Hậu Giang trước đó đã có ít nhất 4 nhà máy đường ở Vị Thanh, Long Mỹ... “Liên kết phát triển vùng còn lỏng lẻo... Việc kết nối giao thông của các tỉnh trong vùng vẫn còn khó khăn. Khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền còn lớn”(10).

Về bộ máy quản trị vùng và thể chế vùng tuy đã thành lập, ban hành nhưng vẫn còn thiếu những bộ phận, cán bộ chuyên trách; thiếu cơ sở dữ liệu theo vùng để đánh giá, giám sát, dự báo và lập quy hoạch, kế hoạch của vùng; thể chế chưa đủ sức hấp dẫn thúc đẩy các chủ thể, đối tác thực hiện liên kết vùng.

Nguyên nhân hạn chế yếu kém trên là do: thứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện nay còn thấp, quy mô nhỏ, nên chưa nảy sinh nhu cầu liên kết sản xuất. Đây là nguyên nhân sâu xa, cơ bản và trực tiếp tác động đến liên kết sản xuất, liên kết vùng. Nguyên nhân thứ hai thuộc về vai trò của Nhà nước trong việc tạo lập môi trường cho liên kết vùng còn hạn chế. Thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm được cụ thể hóa bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo. Thứ ba, chính quyền các địa phương, các chủ thể liên kết còn khá lúng túng về nội dung, hình thức liên kết vùng; chưa kịp thời nhân rộng những mô hình làm ăn có hiệu quả.

3. Những giải pháp thúc đẩy liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long

Nhóm giải pháp nhằm làm thay đổi tư duy nhận thức về liên kết vùng

Cần thống nhất nhận thức và hành động của “bốn nhà” trong chiến lược liên kết sản xuất. Trong đó, Nhà nước với vai trò tạo lập hay kiến tạo môi trường, điều kiện cho phát triển liên kết. Nhà khoa học cung cấp cơ sở lý luận, cơ sở khoa học, nội dung, hình thức, lợi ích, lĩnh vực cần thiết liên kết... để định hướng hoạt động liên kết. Nhà băng (ngân hàng) tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp vay vốn thực hiện các dự án quy mô lớn cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, nông nghiệp xanh hiện nay ở ĐBSCL. Nhà doanh nghiệp chủ động, tích cực xây dựng các mô hình liên kết, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, xác định phương án phân phối hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia liên kết.

Để thực hiện giải pháp trên cần sự tham gia của cả hệ thống chính trị, trong đó: chính quyền địa phương cần tập trung tuyên truyền, làm rõ sự cần thiết và những lợi ích của liên kết vùng. Các đoàn thể chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp làm tốt công tác tuyên truyền, vận động hội viên các đoàn thể và hội nghề nghiệp của mình tích cực tham gia liên kết sản xuất.

Sử dụng tốt phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức và khai thác các mạng xã hội như Zalo, Facebook... để làm công tác tuyên truyền; củng cố và phát triển các hiệp hội doanh nghiệp, các hội nghề nghiệp để qua đó tuyên truyền vận động họ thực hiện các hình thức liên kết sản suất.

Thực hiện tốt nhóm giải pháp này sẽ tạo ra sự chuyển biến về nhận thức, sự đồng thuận của toàn xã hội, từ đó sẽ thúc đẩy các hình thức liên kết kinh tế giữa các thủ thể sản xuất phát triển với những hình thức thích hợp, đi từ trình độ thấp, quy mô nhỏ đến trình độ cao với quy mô lớn và thúc đẩy liên kết vùng phát triển.

Nhóm giải pháp nhằm tạo ra nhu cầu liên kết vùng

Nhu cầu liên kết sản xuất không tự nhiên mà có, nó xuất phát từ lực lượng sản xuất phát triển vượt quá khả năng tổ chức quản lý sản xuất của từng doanh nghiệp riêng lẻ, dẫn đến cần phải liên kết với doanh nghiệp khác để tạo ra một năng lực mới, sức mạnh mới phù hợp với yêu cầu tổ chức, quản lý sản xuất của quan hệ sản xuất mới đã được hình thành. Cho nên, muốn liên kết sản xuất, liên kết vùng phát triển trước tiên chúng ta cần tạo ra nhu cầu liên kết, mà giải pháp cho vấn đề này không có con đường nào khác là phát triển lực lượng sản xuất, để tạo ra nhu cầu liên kết, rồi trên cơ sở đó xây dựng những hình thức liên kết sản xuất phù hợp. Để làm được điều đó cần làm tốt các giải pháp sau đây:

- Đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức để phát triển lực lượng sản xuất. Trước hết, cần ổn định chính trị, kinh tế, xã hội, hoàn thiện các thể chế và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý của Nhà nước để tạo ra môi trường thuận lợi thu hút đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh; sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vốn, tài nguyên thiên nhiên; phát triển khoa học và công nghệ; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

- Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao

Nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là nhân tố quyết định đến tiến độ, chất lượng tiếp thu công nghệ mới. Do vậy, đào tạo nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao là công việc cần thiết, cấp bách hiện nay cho các tỉnh nói riêng cũng như cho ĐBSCL nói chung.

Trong đào tạo nguồn nhân lực phải chú ý đến trình độ, kỹ năng, cơ cấu phù hợp với cơ cấu kinh tế và tiềm năng thế mạnh của địa phương. Đào tạo theo hướng mở, hội nhập, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ. Chú trọng hơn nữa phát triển ngành tự động hóa, đầu tư cho các nhóm nghiên cứu sâu về các lĩnh vực kỹ thuật số, công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm, thông tin vệ tinh, số hóa, năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học và sự tích hợp giữa chúng.

Nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định đến việc khai thác, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực khác. Xét đến cùng, con người là nhân tố quyết định của sự thành công. Đây có thể coi là giải pháp căn bản quyết định đến thành công của liên kết vùng.

- Giải pháp về nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ

Khoa học - công nghệ có vai trò rất quan trọng trong sản xuất và đời sống. Nó làm biến đổi cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất xã hội; thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế; làm thay đổi cơ cấu kinh tế. Song, lĩnh vực này ở vùng ĐBSCL còn nhiều hạn chế, cần tạo lập thị trường cho hoạt động khoa học - công nghệ; huy động các nguồn vốn đầu tư, tăng cường nguồn nhân lực cho khoa học - công nghệ; kiểm soát chặt chẽ các quá trình chuyển giao công nghệ; có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ. Thực tiễn một số mô hình tiếp thu, chuyển giao công nghệ cao trong nuôi tôm, sản xuất lúa gạo, sản xuất - chế biến hoa quả bước đầu đã hình thành và phát triển, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Thí dụ như: Công ty Trúc Anh, Tập đoàn Việt Úc ở tỉnh Bạc Liêu đã đưa công nghệ nuôi tôm, cá PioFloc 2 giai đoạn vào sản xuất, nâng năng suất từ 17-20 tấn/ha lên đến 150 - 250 tấn/ha. Tập đoàn Lộc Trời đã áp dụng công nghệ trồng, chế biến gạo hiện đại, nâng giá trị gạo ngon của vùng ĐBSCL từ 18.000 - 20.000đ/kg lên 117.000đ/kg và ngày càng mở rộng thị trường, góp phần liên kết hơn 30 nghìn nông dân ở các tỉnh ĐBSCL để hướng dẫn họ sản xuất theo quy trình kỹ thuật mới và bao tiêu sản phẩm.

Nhóm giải pháp về đánh giá tiềm năng, thế mạnh, lựa chọn đối tác, mô hình cho liên kết vùng

Đây là nhóm giải pháp quan trọng nhằm xác định lĩnh vực, ngành cần liên kết; lĩnh vực, ngành vùng có khả năng tự thực hiện, làm cơ sở cho công tác quy hoạch, xây dựng kế hoạch thực hiện liên kết, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, trùng lắp, lãng phí nguồn lực như vừa qua ở ĐBSCL.

Thực hiện giải pháp này cần làm tốt các nội dung sau:

- Tiến hành điều tra, khảo sát các nguồn lực phát triển (nguồn nhân lực, nguồn lực khoa học - công nghệ, nguồn vốn, nguồn tài nguyên thiên nhiên) của vùng một cách chi tiết, cụ thể để xác định điểm mạnh, điểm yếu của địa phương có khả năng liên kết.

- Tiến hành quy hoạch và xây dựng các kế hoạch cho phát triển liên kết

Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch cần đổi mới tư duy theo hướng phục vụ liên kết theo mô hình chuỗi giá trị hàng hóa có ưu thế cạnh tranh và có phân công, hợp tác giữa địa phương, vùng. Hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp đầu vào ngành nông nghiệp có lợi thế và gắn với phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông sản có công nghệ tiên tiến để vừa đáp ứng giải quyết đầu ra sản phẩm cho nông dân, vừa đáp ứng yêu cầu của trị trường.

Cần phân tích và định vị rõ các ngành trọng điểm và các ngành hỗ trợ trong chuỗi hàng hóa và dịch vụ. Theo đó, thực hiện tốt các công việc sau: (i) Cần phối hợp tốt giữa quy hoạch ngành và quy hoạch vùng để tránh việc phá vỡ hệ thống quy hoạch chung cả nước. (ii) Việc xây dựng quy hoạch ngành, vùng và quốc gia phải được thực hiện bởi đơn vị tư vấn độc lập có uy tín trong và ngoài nước. (iii) Quản lý việc thực hiện quy hoạch phải được tiến hành triệt để bằng pháp luật hay các công cụ tài chính mạnh. (iv) Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ đối với những nhà đầu tư theo đúng quy hoạch của Nhà nước. (v) Đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng, bảo đảm liên kết giữa các vùng. Chú ý đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng khu nông nghiệp công nghệ cao của Hậu Giang(11), khu nông nghiệp công nghệ cao của Tiền Giang để kêu gọi đầu tư liên kết sản xuất, cũng như cần đẩy mạnh đầu tư các công trình giao thông kết nối các tỉnh trong nội vùng và giữa nội vùng với ngoài vùng, nhất là các tuyến đường cao tốc.

- Giải pháp về lựa chọn mô hình, nội dung, hình thức liên kết

Việc lựa chọn mô hình, nội dung, hình thức liên kết có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định đến sự thành công của liên kết. Thực hiện giải pháp này đòi hỏi các chủ thể sản xuất phải chủ động xác định nội dung, hình thức và mô hình liên kết sản xuất. Các nhà khoa học, nhà quản lý gợi mở, định hướng, dự báo tốt xu hướng phát triển liên kết. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ giúp các chủ thể liên kết ổn định mô hình sản xuất lâu dài.

- Giải pháp lựa chọn đối tác và phương thức phân phối lợi ích

Lựa chọn đối tác và xác định phương thức phân phối lợi ích trong liên kết là việc làm giúp lựa chọn được đối tác mạnh, có năng lực, hạn chế chọn nhầm đối tượng trong liên kết.

Xác định phương thức phân phối lợi ích hài hòa, thỏa đáng với sự đóng góp của các bên là một nguyên tắc cơ bản bảo đảm cho liên kết bền vững.

Thực hiện giải pháp này, các nhà quản lý, nhà khoa học cần cung cấp tốt thông tin về xu hướng phát triển các ngành nghề, lĩnh vực; về thị trường; về mặt mạnh, yếu của các chủ thể có khả năng lựa chọn làm đối tác để các doanh nghiệp của địa phương chủ động lựa chọn đối tác liên kết.

Nhóm giải pháp về hệ thống cơ chế, chính sách hỗ trợ liên kết vùng

Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách mới có tác động tích cực đến việc phát triển liên kết vùng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các chính sách đó đã bộc lộ không ít những hạn chế, bất cập, hiệu quả mang lại chưa tương xứng. Để tiếp tục phát triển liên kết vùng có hiệu quả đòi hỏi phải thường xuyên điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc phát triển liên kết vùng.

Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo động lực cho phát triển liên kết vùng phải được thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện, như chính sách về hạn điền, chính sách về khoa học - công nghệ, chính sách về giáo dục - đào tạo, về môi trường, về an sinh xã hội, về thị trường... Nhà nước cần tiếp tục đổi mới thể chế, hoàn thiện hành lang pháp lý từ Trung ương đến địa phương nhằm tạo môi trường thuận lợi cho phát triển liên kết vùng; xây dựng môi trường pháp lý cho phát triển các ngành, nghề kinh doanh mới đang hình thành từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; có chính sách hỗ trợ hình thành và phát triển các vườn ươm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ.

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 3-2021

(1) Quyết định số 159/2007/QĐ-TTg ngày 10-10-2007 ban hành quy chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương đối với các vùng kinh tế trọng điểm.

(2), (8) Quyết định số 941/QĐ-TTg ngày 25-6-2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc Thành lập tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm.

(3), (7) Quyết định số 2059/QĐ-TTg ngày 24-11-2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo, Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm giai đoạn 2015-2020.

(4) Quyết định số 593/QĐ-TTg ngày 6-4-2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2016 - 2020.

(5), (9), (10) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.27, 27, 66.

(6) Thỏa thuận hợp tác số 16/TTHT-UBND ngày 9-5-2018 của UBND các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long về việc “Thỏa thuận hợp tác phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh, thành phố vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2016-2020”.

(11) Quyết định số 1152/QĐ-TTg ngày 27-8-2012 của Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập khu nông nghiệp công nghệ cao Hậu Giang.

TS NGUYỄN THÀNH HƯNG

Học viện Chính trị khu vực IV

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền