Trang chủ    Đào tạo - Bồi dưỡng    Phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên các trường đại học
Thứ hai, 22 Tháng 5 2023 08:44
3884 Lượt xem

Phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên các trường đại học

(LLCT) Nhân tố chủ quan là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của đội ngũ giảng viên các trường đại học. Phát huy tốt nhân tố chủ quan có thể nâng cao chất lượng, hiệu quả, kích thích tính tích cực, chủ động của đội ngũ giảng viên các trường đại học trong hoạt động giáo dục - đào tạo. Chính vì thế, cần có những nhận thức đúng đắn để đề ra các cách thức, biện pháp phù hợp nhằm phát huy nhân tố chủ quan của đội ngũ giảng viên đại học trong giai đoạn hiện nay.

 

Phát huy nhân tố chủ quan nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính tích cực, chủ động của đội ngũ giảng viên trong hoạt động giáo dục - đào tạo - Ảnh: giaoducthoidai.vn

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra yêu cầu: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài”(1). Để tạo được bước đột phá trong lĩnh lực giáo dục đào tạo trước hết phải tập trung phát triển nguồn lực giảng viên, bởi giảng viên đại học là nguồn nhân lực chất lượng cao, chiếm số lượng đông đảo và đóng vai trò là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục - đào tạo ở các trường đại học. 

Số liệu thống kê tổng kết năm học 2019-2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy, cả nước hiện có 237 trường đại học, học viện (bao gồm 172 trường công lập, 65 trường ngoài công lập). Số giảng viên cơ hữu (không tính các trường đại học, học viện thuộc khối an ninh, quốc phòng) là 73.132 người(2). Để nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên các trường đại học phải tiến hành đồng bộ nhiều cách thức, biện pháp trong đó có việc chú trọng phát huy nhân tố chủ quan của họ. Đây là nhiệm vụ cơ bản, cấp bách và cần thiết. Tuy nhiên, việc nhận thức vai trò, tầm quan trọng của việc phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ này đến nay còn nhiều hạn chế. Ở không ít trường đại học, cơ chế, chính sách, điều kiện vật chất phục vụ cho hoạt động giảng dạy còn khó khăn, thiếu thốn, chưa tạo động lực để đội ngũ giảng viên phát huy hết trình độ, năng lực, tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động giáo dục - đào tạo. 

1. Quan niệm về phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên các trường đại học 

Khi nghiên cứu khái niệm “nhân tố chủ quan” cần xuất phát từ khái niệm “chủ quan”. Khái niệm này không tồn tại độc lập mà luôn được đặt trong mối liên hệ biện chứng với “khách quan”. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, khái niệm “chủ quan” là “cái thuộc về bản thân mình, về cái vốn có của mình”(3). Chủ quan là cái thuộc về chủ thể nhưng nó không đồng nhất với ý thức dù ý thức là một bộ phận quan trọng của cái chủ quan. Ngoài ý thức, chủ thể còn có sức mạnh vật chất của bản thân chủ thể. Như vậy, có thể hiểu: Chủ quan là tất cả những gì phụ thuộc vào chủ thể hoặc được chủ thể sử dụng như một bộ phận hữu cơ của mình để tác động vào khách thể. Từ đó, hiểu một cách khái quát: Nhân tố chủ quan là tất cả những mặt, những yếu tố, những thuộc tính thuộc về chủ thể, trực tiếp tác động đến chủ thể và giúp cho chủ thể hoạt động một cách tích cực, sáng tạo, có hiệu quả. Đặc trưng của nhân tố chủ quan là trực tiếp tham gia vào hoạt động của chủ thể, chỉ đạo, điều chỉnh, định hướng cho hoạt động của chủ thể, giúp cho chủ thể phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình, làm cho hoạt động của chủ thể có hiệu quả. Từ đặc trưng đó, có thể hiểu rằng ý thức của chủ thể là một bộ phận quan trọng cấu thành nên nhân tố chủ quan nhưng không phải là ý thức nói chung mà chỉ là bộ phận ý thức trực tiếp tham gia vào hoạt động của chủ thể. Có thể nói tri thức, quan điểm tư tưởng, niềm tin và ý chí, quyết tâm của chủ thể hòa quyện thống nhất với nhau tạo thành nhân tố chủ quan. 

Thuộc về nhân tố chủ quan không chỉ là ý thức của chủ thể mà còn là bản thân hoạt động của chủ thể. Nhờ quá trình hoạt động, chủ thể mới có thể hiện thực hóa được ý thức của mình. Quá trình hoạt động của chủ thể không phải là quá trình tự phát mà luôn theo những mục đích nhất định. Mục đích chính là động lực cho hoạt động của chủ thể. Bản thân mục đích của chủ thể cũng không ngừng biến đổi. 

Cùng với ý thức của chủ thể và bản thân hoạt động của chủ thể, nhân tố chủ quan còn bao gồm cả phẩm chất trạng thái thuộc về năng lực thể chất của chủ thể. Vì nhân tố chủ quan tạo ra tính chủ động, tích cực trong hoạt động của chủ thể nên nhiều người chỉ nhấn mạnh vai trò của ý thức đối với sự hình thành nhân tố chủ quan mà xem nhẹ yếu tố năng lực thể chất của chủ thể. Năng lực thể chất chính là điều kiện là tiền đề để chủ thể hoạt động và phát huy vai trò tích cực của ý thức trong hoạt động của mình.

Nhân tố chủ quan luôn nằm trong mối quan hệ biện chứng với điều kiện khách quan. Đây là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những yếu tố tồn tại bên ngoài chủ thể, có tác động đến hoạt động của chủ thể và thường xuyên quy định đến quá trình hoạt động của chủ thể. Khi chủ thể xuất hiện, có nhu cầu nhận thức và cải tạo khách thể thì các loại các yếu tố, các mối quan hệ của điều kiện khách quan trở thành điểm xuất phát, thành căn cứ của hoạt động của chủ thể.  Điều kiện khách quan tạo thành hoàn cảnh, thành môi trường hoạt động của chủ thể tác động đến hoạt động của chủ thể còn nhân tố chủ quan trực tiếp tạo nên những biến đổi trong hoạt động của chủ thể, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động của chủ thể làm cho chủ thể hoạt động một cách có hiệu quả. Trong mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, điều kiện khách quan đóng vai trò quyết định, là cơ sở, nền tảng quy định mục đích, nhiệm vụ, phương pháp và phẩm chất của nhân tố chủ quan. Tuy nhiên, nhân tố chủ quan không thụ động mà nó đóng vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc cải tạo điều kiện khách quan, trực tiếp tạo nên những thay đổi trong hoạt động của chủ thể. 

Để tìm hiểu khái niệm “nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên đại học hiện nay” trước hết cần tìm hiểu khái niệm giảng viên đại học. Điều 70, Khoản 3, Luật giáo dục 2005 đã xác định thống nhất về tên gọi nhà giáo: “Nhà giáo giảng dạy ở các cơ sở mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở giáo dục đại học gọi là giảng viên”(4). Đối với bậc học đại học, Điều 54 luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật giáo dục Đại học số 34/ 2018/QH14 của Quốc hội quy định: “Giảng viên bao gồm trợ giảng, giảng viên, giảng viên chính phó giáo sư, giáo sư ở cơ sở giáo dục đại học bổ nhiệm chức danh giảng viên theo quy định của pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế về làm việc và nhu cầu sử dụng của cơ sở giáo dục đại học”(5). Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo đội ngũ giảng viên phải huy động toàn bộ những yếu tố, thuộc tính về phẩm chất, năng lực vốn có để khắc phục những khó khăn, phát huy tính tích cực, sáng tạo của bản thân.

Từ những phân tích lý luận về nhân tố chủ quan và các yếu tố cấu thành nhân tố chủ quan, có thể hiểu: “Nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên các trường đại học hiện nay là tất cả những mặt, những yếu tố, những thuộc tính thuộc về đội ngũ giảng viên (tri thức, năng lực sư phạm, đạo đức, tình cảm, ý chí, sức khỏe…) được họ huy động vào trong quá trình giảng dạy ở các trường đại học”.

Những yếu tố cơ bản của nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên các trường đại học bao gồm: tri thức, năng lực sư phạm, phẩm chất chính trị, đạo đức sư phạm, ý chí, tình cảm, sự tâm huyết nghề nghiệp, sức khỏe… của đội ngũ giảng viên. Phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên các trường đại học hiện nay là nâng cao phẩm chất, năng lực, tinh thần vượt khó, ý chí quyết tâm của họ trước những khó khăn, thách thức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Đây là quá trình tự biến đổi những hạn chế, khó khăn, thách thức thành cơ hội để phát triển hoàn thiện bản thân trong quá trình công tác của họ. 

Phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên các trường đại học hiện nay luôn gắn liền với sự tác động và chi phối của những điều kiện khách quan trong nước và quốc tế chi phối hoạt động giáo dục - đào tạo ở các trường đại học. Những điều kiện khách quan này xét trên phạm vi bao quát gồm điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, địa lý, khí hậu… trong nước và thời đại. Xét cụ thể hơn hơn đó là đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, mục tiêu, yêu cầu đào tạo, chế độ quy định của các trường đại học, điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện, công cụ phục vụ cho quá trình giáo dục - đào tạo. Những điều kiện này luôn vận động biến đổi phát triển tác động ảnh hưởng đến phát huy nhân tố chủ quan của đội ngũ giảng viên. Phát huy nhân tố chủ quan là quá trình giải quyết mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của đội ngũ giảng viên. Phát huy nhân tố chủ quan của đội ngũ giảng viên trong hoạt động giáo dục - đào tạo là quá trình theo đuổi những đòi hỏi mới, mục tiêu mới của quá trình giảng dạy trong khi cơ sở vật chất, phương tiện, dụng cụ vẫn còn thiếu thốn, lạc hậu thậm chí trình độ năng lực tri thức của đội ngũ giảng viên vẫn còn hạn chế, bất cập. 

Có thể khái quát: “Phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục -đào tạo của đội ngũ giảng viên các trường đại học hiện nay là quá trình thực hiện tổng thể các cách thức biện pháp của chủ thể nhằm biến đổi theo hướng tích cực các yếu tố tri thức, năng lực sư phạm, phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, ý chí, niềm tin, tình cảm, sức khỏe… của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục - đào tạo”.

Mục đích phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên các trường đại học hiện nay là nhằm làm cho họ trên cơ sở được giáo dục, bồi dưỡng nâng cao trình độ tri thức, phẩm chất, năng lực sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Chủ thể phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên các trường đại học hiện nay trước hết là Đảng, Nhà nước, Đảng ủy, ban giám đốc, hiệu trưởng, các khoa, viện, các cá nhân có liên quan là cán bộ lãnh đạo, cán bộ làm công tác giáo dục và bản thân đội ngũ giảng viên ở các trường đại học. Đối tượng phát huy là các yếu tố phẩm chất cấu thành nhân tố chủ quan của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học được đội ngũ này huy động vào quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo. Phương thức tác động là sự kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng với nỗ lực phấn đấu vươn lên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên, là một hệ thống động lực thúc đẩy toàn diện, sự tác động từ các chủ thể và sự tự ý thức của bản thân đội ngũ giảng viên.

2. Thực trạng phát huy nhân tố chủ quan của đội ngũ giảng viên các trường đại học 

Thứ nhất, về nâng cao trình độ tri thức, năng lực sư phạm của đội ngũ giảng viên

Những năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Đảng ủy, Ban giám đốc, Ban giám hiệu, các khoa, viện của các trường đại học, số lượng và chất lượng của đội ngũ giảng viên đại học ngày một được nâng lên. 

Ngày 18-01-2019, Chính phủ phê duyệt Quyết định số 89/QĐ-TTg về Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030. Đề án nêu rõ việc chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên đại học vì đây là yếu tố quyết định chất lượng giáo dục đại học. Năm học 2022- 2023, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục yêu cầu các cơ sở giáo dục đại học cần có kết hoạch triển khai có hiệu quả Đề án, có chính sách thu hút chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài hợp tác nghiên cứu, đào tạo trong các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam. Những chính sách hỗ trợ đúng đắn và kịp thời đã góp phần không nhỏ kích thích tính tích cực, chủ động của đội ngũ giảng viên trong học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu hoạt động giáo dục - đào tạo.

Tuy nhiên, việc phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên các trường đại học còn tồn tại những hạn chế nhất định. Trình độ tri thức, năng lực giảng dạy của một bộ phận giảng viên chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ. Tính trên tổng số giảng viên hiện nay, số giảng viên có chức danh Giáo sư chỉ là 757 người - chiếm 0.89%. Đây cũng là thành phần ít nhất trong cơ cấu trình độ giảng viên. Số giảng viên có chức danh Phó giáo sư cũng chỉ chiếm 6,12%. Số giảng viên có học vị tiến sĩ là 25,19%. Số giảng viên có trình độ thạc sĩ chiếm tỷ lệ đông nhất với 60,35% và số giảng viên có trình độ đại học là 7,36%(6).

Trong khi đó, tại Điều 54 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học số 34/2018/QH14 của Quốc hội quy định: Trình độ tối thiểu của chức danh giảng viên giảng dạy trình độ đại học là thạc sĩ, trừ chức danh trợ giảng, trình độ của chức danh giảng viên giảng dạy trình độ thạc sĩ, tiến sĩ là tiến sĩ. Cơ sở giáo dục đại học ưu tiên tuyển dụng người có trình độ tiến sĩ làm giảng viên; phát triển, ưu đãi đội ngũ giáo sư đầu ngành để phát triển các ngành nghề đào tạo. Có thể thấy, trình độ tri thức, năng lực của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học hiện nay đang ngày một được nâng lên nhưng số lượng những giảng viên là Giáo sư, Phó giáo sư đầu ngành còn rất hạn chế. Số giảng viên có học vị tiến sĩ mới chiếm 25,19%. Thực tế đó cho thấy, nguồn lực giảng viên trình độ cao của các trường đại học còn rất thiếu. Trong khi trình độ tri thức là yếu tố cốt lõi để giảng viên nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo sinh viên. Do đó, muốn phát huy tốt nhân tố chủ quan của họ cần tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ giảng viên học tập, nâng cao trình độ. Hiện nay, nguồn ngân sách sử dụng cho giảng viên học tập nâng cao trình độ còn hạn chế. Về kinh tế, mức thu nhập của đội ngũ giảng viên đại học chưa cao trong khi kinh phí đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ phần lớn phải do họ tự chi trả. Chế độ đãi ngộ nhằm khuyến khích đội ngũ giảng viên học tập nâng cao trình độ chưa đủ sức thu hút, dẫn dến nhiều giảng viên không muốn tiếp tục học lên. 

Thứ hai, về phát huy phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tình cảm, niềm tin của đội ngũ giảng viên đại học

Phần lớn đội ngũ giảng viên có lập trường chính trị tư tưởng vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt nhưng bên cạnh đó cũng có một bộ phận giảng viên còn có tâm lý hoang mang, dao động, ngại khó khăn, vất vả. Nguyên nhân là do chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài và sử dụng nhân tài của nhiều trường còn chưa hợp lý dẫn đến tình trạng giảng viên không an tâm công tác, không muốn gắn bó, không muốn cống hiến. Không ít giảng viên xin chuyển trường, chuyển vị trí công tác vì mong muốn một mức thu nhập cao hơn. Bởi lẽ, lợi ích là yếu tố cốt lõi để đội ngũ giảng viên gắn bó lâu dài và mong muốn cống hiến cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Lợi ích của mỗi người, của từng tập thể và của xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Điều này dẫn đến việc số lượng giảng viên giảng dạy chuyên sâu tại các trường thiếu hụt, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của các trường đại học. Cùng với đó, việc đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy đã có những bước chuyển biến nhưng nhìn chung còn chậm, tồn tại nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới chất lượng giáo dục - đào tạo trong tình hình mới cũng gây tâm lý chán nản, không tạo được động lực sáng tạo cho đội ngũ giảng viên.

Bên cạnh đó, đứng trước yêu cầu đổi mới giáo dục, sự phát triển khoa học công nghệ và tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, điều kiện vật chất phục vụ cho việc dạy và học ở nhiều trường đại học không theo kịp trình độ phát triển của các nước trên thế giới, dễ rơi vào tụt hậu. Những tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường đến mọi mặt của đời sống xã hội nói chung và đời sống cá nhân, gia đình của mỗi giảng viên nói riêng làm xuất hiện những tư tưởng, hành vi mang tính cực đoan theo hướng đề cao giá trị vật chất, theo đuổi lợi ích cá nhân, suy thoái về đạo đức lối sống, không có động lực, khát khao cống hiến. 

Thứ ba, thực trạng phát huy tính năng động, tích cực, tinh thần hợp tác, linh hoạt sáng tạo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên 

Bên cạnh việc phát triển trình độ tri thức, năng lực của giảng viên, những năm gần đây các trường đại học đã chú trọng tiến hành nhiều biện pháp nhằm phát huy tính năng động, tích cực, tinh thần hợp tác, linh hoạt sáng tạo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đào tạo của đội ngũ giảng viên thông qua việc tổ chức những hoạt động giáo dục, tọa đàm, hội thảo, hợp tác về khoa học, công nghệ… Đa phần đội ngũ giảng viên đại học có nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của người thầy và nhiệm vụ giảng dạy của mình, luôn nhiệt tình trách nhiệm, say mê với sự nghiệp “trồng người”, nắm chắc kiến thức chuyên môn, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, bám sát thực tiễn, tích cực cải biến nội dung bài giảng sinh động, hấp dẫn từ đó giúp sinh viên học tập tích cực, chủ động và có kết quả tốt hơn.

Tuy nhiên, việc tiến hành những hoạt động nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tính chủ động sáng tạo trong nhân tố chủ quan của đội ngũ giảng viên vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Một bộ phận giảng viên đại học có trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa tích cực, tự giác trong rèn luyện nâng cao phẩm chất, năng lực, đôi lúc còn thiếu linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động đổi mới phương pháp giảng dạy, chất lượng hoạt động chuyên môn còn hạn chế. Những hạn chế, khuyết điểm đó là do trong công tác lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo ở các nhà trường, khoa, viện chưa kiên quyết, kịp thời đối với việc phát huy nhân tố chủ quan của đội ngũ giảng viên, đồng thời cũng do nhận thức, trách nhiệm, tính chủ động sáng tạo của bản thân giảng viên còn hạn chế. Thực trạng đó đặt ra yêu cầu cấp bách cho việc phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên đại học.

3. Khuyến nghị nhằm phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên các trường đại học 

Thứ nhất, tăng cường vai trò trách nhiệm của các Đảng ủy, Ban giám đốc, Ban giám hiệu, các khoa, viện 

Phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động giáo dục - đào tạo của đội ngũ giảng viên các trường đại học phụ thuộc trực tiếp vào năng lực lãnh đạo, quản lý của Đảng ủy, Ban giám đốc, Ban giám hiệu, các khoa, viện. Vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của các cơ quan này là điều kiện cần thiết cho việc phát huy nhân tố chủ quan của đội ngũ giảng viên.

Trước hết Đảng ủy, Ban giám đốc, Ban giám hiệu các trường phải nhận thức rõ vị trí, vai trò của đội ngũ giảng viên và quan điểm xây dựng đội ngũ giảng viên bảo đảm đủ số lượng, không ngừng nâng cao chất lượng, đồng thời tích cực đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tri thức, năng lực sư phạm cho đội ngũ giảng viên. Cần tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ giảng viên học tập nâng cao trình độ học vấn, kiến thức chuyên môn và kiến thức thực tiễn. 

Tri thức, năng lực sư phạm, năng lực chuyên môn được coi là yếu tố cốt lõi trong nhân tố chủ quan của người giảng viên, chính vì thế Đảng ủy, Ban giám đốc, Ban giám hiệu các trường cần tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích đội ngũ giảng viên tích cực học tập nâng cao trình độ tri thức, bồi dưỡng năng lực sư phạm, đặc biệt chú trọng tri thức, năng lực chuyên môn, coi đây là yếu tố cấp bách, quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động giáo dục - đào tạo và uy tín, vị thế của các nhà trường. Ngoài ra, cần tạo điều kiện để giảng viên được trải nghiệm, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, nâng cao năng lực từ chính quá trình giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Cần định kỳ kiểm tra, đánh giá, sàng lọc đội ngũ giảng viên nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy. 

Thứ hai, tăng cường giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, khơi dậy ý chí, khát vọng, tâm huyết nghề nghiệp của đội ngũ giảng viên 

Văn kiện Đại hội XIII xác định rõ mục tiêu của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn tới: “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc… khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa(7). Để đạt được mục tiêu đó, trước hết đội ngũ nhà giáo phải mang trong mình những phẩm chất, ý chí và khát vọng nghề nghiệp. Cần phải giáo dục, bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Muốn làm được điều đó cần tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng cho đội ngũ giảng viên. Giáo dục lòng say mê, tinh thần trách nhiệm, khát vọng cống hiến và đạo đức nghề nghiệp bởi đó là những phẩm chất định hướng cho động cơ, thái độ, lập trường thúc đẩy đội ngũ giảng viên nỗ lực hoàn thành công việc, khiến họ trở thành tấm gương sáng về đạo đức, phong cách, lối sống, chuẩn mực từ đó tác động mạnh mẽ đến sinh viên, tạo cho sinh viên niềm tin, lòng say mê, tinh thần lạc quan để không ngừng phấn đấu vươn lên trong học tập, chiếm lĩnh tri thức.

Thứ ba, xây dựng môi trường thuận lợi 

Từng bước bổ sung hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất phục vụ hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học, tự học tập nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên. Đại hội Đảng lần thứ XIII cũng chỉ ra mục tiêu “Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới; hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh”(8). Để thực sự gắn kết giáo dục - đào tạo với khoa học công nghệ, các trường đại học một mặt phải duy trì, bảo quản, sửa chữa cơ sơ vật chất, phương tiện dạy học hiện có, đồng thời phải đầu tư trang thiết bị dạy học tân tiến và có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giảng viên thích ứng với điều kiện vật chất, kỹ thuật mới, các phương tiện dạy học hiện đại. Điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động giảng dạy là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến tính tích cực, lòng say mê, nhiệt tình, tự giác và sáng tạo của đội ngũ giảng viên.

Bên cạnh đó, Đảng ủy, Ban giám đốc, Ban giám hiệu, các khoa, viện cần chú trọng công tác tôn vinh thành quả hoạt động giáo dục của các giảng viên, có chế độ khen thưởng, động viên kịp thời đối với những đóng góp, cống hiến của giảng viên từ đó xây dựng cho họ niềm tin, tình yêu nghề nghiệp để tạo thêm sức mạnh, lòng say mê, hứng thú trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy. Bằng các hình thức dự giờ, sinh hoạt chuyên môn học thuật các giảng viên thường xuyên được học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, kiến thức trong quá trình giảng dạy để từng bước xây dựng, hoàn thiện ở người giảng viên những phẩm chất, năng lực, văn hóa sư phạm cần có.

Thứ tư, hoàn thiện hệ thống chính sách tạo động lực phát huy nhân tố chủ quan.

Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, lợi ích là động lực của lịch sử, là một động lực giữ vai trò đặc biệt trong hoạt động của con người và trong sự phát triển của xã hội. Để phát huy nhân tố chủ quan của đội ngũ giảng viên trước hết phải bảo đảm lợi ích của họ. Lợi ích ấy bao gồm cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần thuộc sở hữu riêng tư. Đó là chế độ lương, thưởng, nơi ăn ở, học hành, phương tiện, học hàm, học vị, sự tôn vinh, danh tiếng, vị thế xã hội… là cơ sở kích thích tính tích cực làm việc của mỗi cá nhân. Thực hiện chế độ chính sách đãi ngộ hợp lý tạo động lực để đội ngũ giảng viên ở các trường đại học phát huy nhân tố chủ quan để thực hiện nhiệm vụ được giao. Các trường đại học cần từng bước chuẩn hóa chức danh, chế độ, quyền lợi, nghĩa vụ của đội ngũ giảng viên, đồng thời không ngừng bảo đảm các điều kiện vật chất và tinh thần cho đội ngũ giảng viên. Từng bước ổn định nơi ăn, ở, làm việc, học tập của giảng viên. Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi, giúp đỡ tạo điều kiện tốt để giảng viên yên tâm công tác.

_________________

Ngày nhận bài: 6-5-2023; Ngày bình duyệt: 16-5-2023; Ngày duyệt đăng: 22-5-2023.

 

(1), (7), (8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 2021, tr.115, 136-137, 232-233.

(2) Bộ Giáo dục và Đào tạo: Số liệu thống kê giáo dục đại học năm học 2019-2020https://moet.gov.vn/thong-ke/Pages/thong-ko-giao-duc-dai-hoc.aspx?ItemID=7389, truy cập ngày 28-6-2021.

(3) Trung tâm Từ điển học: Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1999, tr.394.

(4) Quốc hội: Luật Giáo dục năm 2005, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

(5) Phạm Thị Ngọc Ánh: Giảng viên là gì? Các loại giảng viên? Tiêu chí làm giảng viên?https://luatduonggia.vn/giang-vien-la-gi-cac-loai-giang-vien-tieu-chi-lam-giang-vien/ Phạm Thị Ngọc Ánh, truy cập ngày 16-10-2022.

(6) Thanh Hùng: Tỷ lệ giảng viên đại học có chức danh giáo sư ở Việt Nam chỉ đạt 0,89%https://vietnamnet.vn/ty-le-giang-vien-dai-hoc-co-chuc-danh-giao-su-o-viet-nam-chi-dat-0-89-2059801.html, truy cập ngày 29-12-2022.

ThS NGUYỄN THỊ NGA

Học viện Kỹ thuật Quân sự

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền